Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Xây dựng nền tảng pháp lý cho đổi mới và đầu tư công nghệ

Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam bước vào giai đoạn chuyển đổi mô hình tăng trưởng, đổi mới sáng tạo và công nghệ cao trở thành động lực trọng yếu để nâng cấp năng lực cạnh tranh quốc gia.

Bộ Khoa học và Công nghệBộ Khoa học và Công nghệ30/11/2025

Từ sản xuất gia công truyền thống, Việt Nam đang hướng tới làm chủ tri thức, làm chủ công nghệ và hình thành các ngành kinh tế dựa trên khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, để quá trình này diễn ra bền vững, cần một khung pháp lý đủ mạnh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, viện nghiên cứu và nhà đầu tư. Chính vì vậy, việc hoàn thiện và sửa đổi Luật Công nghệ cao được xem là đòn bẩy quan trọng nhằm thúc đẩy đổi mới, đầu tư và hình thành hệ sinh thái công nghệ cao thực chất.

Xây dựng nền tảng pháp lý cho đổi mới và đầu tư công nghệ- Ảnh 1.

Xây dựng nền tảng pháp lý cho đổi mới và đầu tư công nghệ.

Luật Công nghệ cao ra đời năm 2008 đã tạo nền tảng ban đầu cho phát triển lĩnh vực này, nhưng sau hơn một thập kỷ, bối cảnh và yêu cầu phát triển đã thay đổi đáng kể. Công nghệ mới xuất hiện liên tục khiến các khái niệm về "công nghệ cao", "sản phẩm công nghệ cao", hay "doanh nghiệp công nghệ cao" trở nên không còn phù hợp nếu áp dụng theo cách cũ. Trong khi đó, hành lang pháp lý hiện hành vẫn tập trung vào ưu đãi và công nhận doanh nghiệp, chưa chú trọng đủ mối liên kết giữa nghiên cứu – sản xuất – thương mại hóa – thị trường. Điều này dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp không dám đầu tư dài hạn vào R&D vì rủi ro cao, thời gian hồi vốn lâu và thiếu cơ chế khuyến khích mạnh mẽ.

Dự thảo sửa đổi Luật Công nghệ cao hiện hướng tới một cách tiếp cận mới, trong đó ưu tiên đầu tư vào công nghệ nền tảng, công nghệ lõi và công nghệ chiến lược. Điểm nhấn quan trọng là chuyển từ ưu đãi dựa trên danh xưng sang ưu đãi dựa trên kết quả và năng lực thực tế. Doanh nghiệp không còn phải "chạy giấy chứng nhận" mà tập trung vào chứng minh đóng góp về sản phẩm, sáng chế, nghiên cứu hoặc hiệu quả ứng dụng. Cách tiếp cận này giúp giảm chi phí thủ tục, đồng thời nâng tính minh bạch, trách nhiệm và động lực cạnh tranh.

Bên cạnh đó, Luật sửa đổi cũng hướng đến mở rộng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo thay vì chỉ hỗ trợ doanh nghiệp đã trưởng thành. Các viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ, thậm chí doanh nghiệp vừa và nhỏ đều được tiếp cận cơ chế ưu đãi nếu đầu tư vào nghiên cứu hoặc ứng dụng công nghệ cao. Đây là điểm then chốt để hình thành chuỗi giá trị công nghệ, từ nghiên cứu cơ bản đến sản phẩm thương mại.

Một hướng tiếp cận khác là thu hút đầu tư trong và ngoài nước gắn với chuyển giao công nghệ. Thực tế lịch sử cho thấy Việt Nam đã nhận nhiều nguồn vốn FDI, nhưng phần lớn tập trung ở khâu sản xuất, lắp ráp, ít chuyển giao kỹ thuật và tri thức lõi. 

Luật cần tạo cơ chế để đầu tư nước ngoài không chỉ mang vốn, mà còn mang công nghệ và đội ngũ chuyên gia. Điều này đòi hỏi ưu đãi thông minh: Ưu tiên doanh nghiệp tạo giá trị gia tăng cao, ứng dụng công nghệ mới, hoặc cam kết đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ. Mô hình "học - làm - sáng tạo" mới có thể giúp Việt Nam rút ngắn khoảng cách công nghệ so với các quốc gia đi trước.

Hệ sinh thái hỗ trợ công nghệ cũng cần được luật hóa rõ ràng hơn. Đổi mới sáng tạo không chỉ là phòng thí nghiệm hay dây chuyền sản xuất, mà còn là thị trường dịch vụ công nghệ: Tư vấn chuyển giao, định giá tài sản trí tuệ, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, ươm tạo startup, cung cấp vốn mạo hiểm. Quốc gia nào xây dựng được hệ sinh thái đó sớm sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh bền vững. 

Nhiều chuyên gia cho rằng, luật mới cần "làm bật" vai trò của doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm, quỹ tài chính khoa học, startup công nghệ và cơ sở dữ liệu quốc gia về đổi mới sáng tạo. Đây là các trụ cột giúp Việt Nam chuyển từ "đi sau học hỏi" sang "đi cùng công nghệ".

Trong thực thi, yếu tố then chốt là xác lập tiêu chí và cơ chế hậu kiểm. Ưu đãi phải đi kèm trách nhiệm. Doanh nghiệp, viện nghiên cứu hay nhà đầu tư nếu sử dụng chính sách hỗ trợ cần chứng minh được đóng góp về sản phẩm, sáng chế, giá trị kinh tế, năng suất hoặc năng lực nhân lực. 

Mô hình kiểm soát bằng kết quả giúp tránh tình trạng xin - cho, đảm bảo nguồn lực công được tập trung vào dự án thực chất. Chính sách này cũng giúp Nhà nước phân bổ nguồn lực có chọn lọc, đặt trọng tâm vào công nghệ có khả năng tạo đột phá như chip bán dẫn, vật liệu mới, AI, năng lượng tái tạo, công nghệ sinh học hoặc công nghệ y sinh.

Xét về tầm chiến lược, việc sửa đổi Luật Công nghệ cao không chỉ giải quyết các vấn đề hiện tại, mà còn có ý nghĩa lâu dài đối với con đường phát triển của Việt Nam. Đổi mới sáng tạo là một quá trình liên tục, đòi hỏi đầu tư dài hạn, môi trường pháp lý ổn định và sự phối hợp đa ngành. 

Luật có thể là nền móng, nhưng sự thành công phụ thuộc vào cách triển khai: Sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp, nỗ lực của viện nghiên cứu, sự linh hoạt của bộ máy nhà nước và mức độ liên kết giữa nhà khoa học - nhà đầu tư - người tiêu dùng.

Nếu được thiết kế hiệu quả, Luật Công nghệ cao sẽ không chỉ thúc đẩy đổi mới và đầu tư, mà còn giúp định hình tương lai phát triển của Việt Nam. Nó tạo ra sân chơi công bằng, minh bạch, khuyến khích ý tưởng mới và bảo vệ nỗ lực sáng tạo. 

Phát triển công nghệ cao là lựa chọn chiến lược của một quốc gia đang hướng tới công nghiệp hóa hiện đại, và xây dựng luật phù hợp chính là bước đi đầu tiên để biến tầm nhìn ấy thành hiện thực.

Trung tâm Truyền thông KH&CN

Nguồn: https://mst.gov.vn/xay-dung-nen-tang-phap-ly-cho-doi-moi-va-dau-tu-cong-nghe-197251130220822221.htm


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chuyên mục

Bừng sáng sau bão lũ, làng hoa cúc Tết tại Gia Lai mong đừng cúp điện để cứu cây
Thủ phủ mai vàng miền Trung thất thu nặng sau thiên tai kép
Quán cà phê Hà Nội gây sốt với khung cảnh Noel như trời Âu
Quán cà phê Đà Lạt tăng 300% khách vì chủ đóng vai 'phim chưởng'

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

Giữ gìn cột mốc, tôn trọng ranh giới - Ý thức chủ quyền từ mỗi bước chân

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm