Nằm trong không gian làng quê thanh bình của thôn Hợp Thành, xã Quy Mông, quần thể đình - đền Quy Mông tọa lạc trọn vẹn trên một gò đất cao hình bát úp, thế đất hài hòa, bề thế. Không nổi bật về quy mô, di tích gây ấn tượng bởi vẻ trầm mặc, giản dị; chính sự giản dị trong hình thức kiến trúc đã tạo nên chiều sâu giá trị, nơi dấu ấn quá khứ vẫn hiện hữu qua từng nếp mái, hàng cột và bậc thềm
Theo các bậc cao niên trong vùng, tên gọi Quy Mông có mối liên hệ trực tiếp với phủ Quy Hóa của tỉnh Hưng Hóa xưa, địa bàn rộng lớn từng bao gồm: Thủy Vĩ, Trấn Yên, Văn Chấn, Văn Bàn, Yên Lập. Trải qua những thay đổi về địa giới và hành chính, dấu vết địa danh “Quy” dần phai mờ. Hiện nay, Quy Mông được xem như chứng tích địa danh hiếm hoi còn sót lại, gợi nhắc về một vùng đất từng giữ vai trò quan trọng trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên thế kỷ XIII.
Quy Mông cũng là vùng quần cư lâu đời của nhiều dân tộc anh em, trong đó đồng bào dân tộc Mường chiếm số đông. Qua nhiều thế hệ, người Mường nơi đây vẫn giữ được những nét văn hóa truyền thống đặc trưng, từ kiến trúc nhà ở, phong tục tập quán đến sinh hoạt tín ngưỡng, lễ hội. Trong đời sống cộng đồng ấy, đình - đền Quy Mông giữ vai trò như trung tâm sinh hoạt văn hóa tâm linh, nơi kết nối con người với lịch sử, với cội nguồn và với nhau.
Quần thể đình và đền Quy Mông được hình thành vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Ban đầu, đình - đền chỉ được dựng bằng tranh tre, nứa lá. Đến thời Nguyễn, một bộ phận người Mường do cụ Đinh Văn Căn (quê Hương Cần, Thanh Sơn, Sơn Tây xưa) dẫn đầu đã ngược dòng sông Thao lên khai khẩn đất đai, lập làng và tu sửa lại đình - đền. Từ đó, công trình gắn bó mật thiết với đời sống cộng đồng, trở thành điểm tựa tinh thần của cư dân địa phương suốt nhiều thế hệ.
Theo các tư liệu hiện còn lưu giữ, đình Quy Mông là nơi thờ tự nhiều nhân vật tiêu biểu trong hệ thống tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Chủ thần được tôn thờ tại đình là Tản Viên Sơn Thánh - một trong ‘Tứ bất tử’, biểu trưng cho sức mạnh chế ngự thiên nhiên và khát vọng bảo vệ cuộc sống con người. Ngoài ra, đình còn thờ các vị Trấn quốc Đại vương, Phiên quốc Đại vương, 18 vị Văn, Võ Lang Công cùng Thần Nông, qua đó phản ánh rõ nét thế giới quan và tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp lúa nước vùng thượng lưu sông Hồng.”
Về kiến trúc, đình Quy Mông được xây dựng theo lối chữ “nhất”, gồm: Ba gian cột gỗ, lợp mái cọ, có đại bái và hậu cung. Điểm đặc biệt tạo nên giá trị riêng có của ngôi đình chính là dấu ấn đậm nét văn hóa Mường. Đình được làm theo kiểu nhà bán sàn, hậu cung đặt ở sàn trên cách bố trí gần gũi với không gian sinh hoạt truyền thống của người Mường. Các mảng chạm khắc gỗ mang đề tài tứ linh, tứ quý, hoa văn dân gian được thể hiện công phu, hài hòa, cho thấy trình độ thẩm mỹ và tay nghề tinh xảo của các nghệ nhân xưa.
Đình hiện còn lưu giữ nhiều hiện vật quý, như: hoành phi, câu đối, ngai thờ, ô, lọng, đặc biệt là bốn bộ ngai thờ và vương miện có giá trị về mặt khảo cổ. Ngai được làm bằng gỗ mít, sơn son thếp vàng, vương miện bằng đồng đen quý hiếm, chạm khắc hình rồng phượng tinh xảo.
Đáng chú ý, trong đình Quy Mông hiện còn bảo lưu được 9 đạo sắc phong của các triều vua Nguyễn - những tư liệu lịch sử có giá trị cao, phản ánh rõ vị thế và vai trò của ngôi đình trong đời sống tín ngưỡng cộng đồng qua nhiều thời kỳ.
Cụ thể, Đệ Nhất Quốc Tản Viên Sơn Thần được ban 4 đạo sắc vào các năm Duy Tân tam niên (1909), Duy Tân ngũ niên (1911) và 2 đạo sắc Khải Định cửu niên (1924). Đệ Nhị Cao Sơn Thần Đại vương (trung đẳng thần) có 3 đạo sắc, ban vào các năm Thành Thái nguyên niên (1889), Duy Tân tam niên (1909) và Khải Định cửu niên (1924). Đệ Nam Trấn Quốc Đại vương (trung đẳng thần) được phong 2 đạo sắc vào các năm Duy Tân ngũ niên (1911) và Khải Định cửu niên (1924). Sự hiện diện liên tục của các đạo sắc phong qua nhiều triều đại cho thấy đình Quy Mông không chỉ là thiết chế tín ngưỡng làng xã, mà còn là một trung tâm văn hóa tâm linh có vị thế bền vững, được triều đình phong kiến chính thức ghi nhận.
Cách đình không xa, qua 67 bậc thang, là đền Quy Mông với không gian linh thiêng, tĩnh tại. Đền thờ vọng Mẫu Đông Cuông, thờ Quế Hương công chúa và bà Nguyễn Thị Hoa, người có công cùng hai em gái khai phá vùng đất rộng lớn từ Ngòi Rào đến Ngòi Thia. Kiến trúc đền cũng theo lối nhà bán sàn, hài hòa với cảnh quan tự nhiên, tạo nên cảm giác thanh bình, gần gũi.
Không chỉ hiện hữu trong kiến trúc và tư liệu lịch sử, đình - đền Quy Mông còn sống động trong đời sống lễ hội. Lễ hội đình - đền được tổ chức vào ngày mùng 7 tháng Giêng âm lịch hằng năm. Trong lễ hội, các hoạt động diễn ra sôi động với nhiều trò chơi dân gian, như: kéo co, đẩy gậy, ném còn, đánh đu. Đặc biệt, điệu múa Mỡi của người Mường bản địa mô phỏng các công đoạn lao động nông nghiệp, gửi gắm ước vọng mùa màng tươi tốt, cuộc sống ấm no vẫn được gìn giữ và truyền lại qua các thế hệ.
Trải qua bao biến thiên của lịch sử, đình - đền Quy Mông không chỉ còn lại như một công trình kiến trúc cổ, mà đã trở thành ký ức sống của cộng đồng cư dân nơi đây. Hệ thống sắc phong được bảo tồn cẩn trọng, các nghi lễ truyền thống vẫn được duy trì thường xuyên, cùng việc thực hành điệu múa Mỡi, cho thấy di tích luôn gắn bó mật thiết và liên tục với đời sống văn hóa, tinh thần của cộng đồng người Mường ở Quy Mông.
Việc tu bổ, tôn tạo quần thể đình - đền trong những năm gần đây không làm mất đi kiến trúc truyền thống vốn có, mà ngược lại, tạo điều kiện để di tích tiếp tục tồn tại như một không gian văn hóa đang vận hành, nơi các thế hệ hôm nay có thể chạm vào lịch sử bằng sự tôn kính, chứ không phải bằng hoài niệm xa vời.
Trong nhịp sống hiện đại, khi nhiều giá trị truyền thống đứng trước nguy cơ phai nhạt, đình - đền Quy Mông vẫn bền bỉ giữ vai trò là nơi neo giữ bản sắc, kết nối con người với cội nguồn. Chính sự hiện diện lặng lẽ nhưng bền vững ấy đã làm nên giá trị sâu xa của di tích, một giá trị không chỉ nằm ở niên đại hay kiến trúc, mà ở việc di sản vẫn đang được cộng đồng tiếp tục sống cùng, gìn giữ và trao truyền.
Nguồn: https://baolaocai.vn/dinh-den-quy-mong-va-dau-an-quy-hoa-trong-khong-gian-van-hoa-nguoi-muong-post888871.html






Bình luận (0)