Chuyện từ nhà Rông...
Trong khuôn viên Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (DTHVN) ở Hà Nội có một nhà Rông của người Ba Na theo nguyên mẫu duy nhất còn sót lại của làng Kon Rbàng, xã Ngọk Bay, tỉnh Quảng Ngãi. Với người Ba Na, từ xa xưa, ngôi nhà Rông không chỉ là nơi hội họp, sinh hoạt cộng đồng mà còn là biểu tượng thiêng liêng của bản làng.
Theo truyền thuyết xưa kia các dân tộc từng chung sống trong một ngôi nhà khổng lồ - ngôi nhà chung đầu tiên của loài người. Sau đại hồng thủy, con người tản đi khắp bốn phương hình thành nên nhiều dân tộc khác nhau. Khi lập làng mới, người Ba Na dựng nhà Rông ở trung tâm như biểu tượng nối dài của ngôi nhà chung thuở ban đầu, nơi gắn kết cộng đồng và cội nguồn. Ngày nay, nhà Rông là di sản văn hóa gắn liền với lịch sử cư trú lâu đời của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Mỗi cột gỗ, mái tranh đều chứa đựng bàn tay khéo léo, trí tuệ và tâm huyết của những nghệ nhân làng - đồng bào Ba Na.
Ở Bảo tàng DTHVN, trong bức tranh đa dạng văn hóa Việt Nam, nhà Rông của người Ba Na góp phần khắc họa nét sinh hoạt cộng đồng đặc trưng, làm giàu cho bản sắc chung, cùng dệt nên bức tranh văn hóa rực rỡ của đất nước. Tuy nhiên, qua năm tháng, dưới sự tác động của thời tiết, nhà Rông ở Bảo tàng DTHVN đòi hỏi phải có sự bảo tồn và sửa chữa. Nhưng thực tế cho thấy, việc bảo tồn và sửa chữa trong bối cảnh hiện nay khi ở nhiều làng bản, nhà Rông đã không còn giữ đúng như nguyên mẫu ban đầu vì nhiều nguyên nhân khác nhau cũng như sự khan hiếm của vật liệu tre, nứa, tranh… là không hề dễ dàng. Bên cạnh đó, đội ngũ nghệ nhân dựng nhà Rông cũng đã cao tuổi, không thể dễ dàng thực hiện công việc được như trước.
Ngày 18/10/2025, tại Bảo tàng DTHVN đã diễn ra Tọa đàm “Nhà Rông và vấn đề bảo tồn trong bối cảnh đương đại” với sự tham gia của các thế hệ lãnh đạo bảo tàng, các chuyên gia, nhà nghiên cứu và 20 người Ba Na tại làng Kon Rbàng là những người tham gia phục dựng nhà Rông tại đây. Nội dung Tọa đàm cho thấy, về vấn đề vật liệu, mặc dù Tây Nguyên nổi tiếng với rừng cây bạt ngàn nhưng việc tìm kiếm gỗ đáp ứng yêu cầu như gỗ cà chít - một loại gỗ có độ bền cao nhưng rất quý hiếm là cực kỳ khó khăn, ngay cả tỉnh Kon Tum cũ (nay là tỉnh Quảng Ngãi) cũng không thể cung cấp được. Ngoài việc khan hiếm nguồn gỗ, những quy định bảo vệ rừng cũng đã được siết chặt, người dân không còn dễ dàng tìm kiếm những vật liệu đặc trưng như gỗ cà chít, tre, nứa, tranh... cần thiết để dựng nhà Rông nguyên bản. Họ buộc phải tìm đến các vật liệu thay thế hiện đại, làm mất đi sự liên kết hữu cơ giữa kiến trúc và môi trường tự nhiên bản địa. Cạnh đó, công tác bảo tồn nhà Rông gặp trở ngại lớn về nhân lực bởi cộng đồng Ba Na không có thợ chuyên biệt mà chỉ là người dân biết nghề, gây khó khăn khi huy động. Thêm vào đó, sự mai một của các nghệ nhân gạo cội đang đe dọa việc truyền dạy và duy trì tri thức truyền thống cho thế hệ trẻ.
Một trong những giải pháp quan trọng được nhấn mạnh tại buổi tọa đàm là đặt cộng đồng người Ba Na vào trung tâm của quá trình bảo tồn, đồng thời tạo điều kiện để thế hệ trẻ tiếp nối. Suốt hơn 20 năm qua, bà con Kon Rbàng đã trực tiếp dựng, chăm sóc và tu sửa ngôi nhà Rông tại Bảo tàng DTHVN, góp phần gìn giữ trọn vẹn giá trị truyền thống. Sự tham gia của những người trẻ như A Thuân nghệ nhân sinh năm 2006 đã mở ra một thế hệ kế cận, nơi bản sắc văn hóa không chỉ được lưu giữ mà còn được trao truyền và lan tỏa bền vững.
Bên cạnh yếu tố cộng đồng, công tác tuyên truyền - giáo dục đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao nhận thức xã hội về giá trị của nhà Rông. Thông qua các hoạt động truyền thông đa nền tảng, trưng bày - trải nghiệm tại bảo tàng, các buổi tọa đàm và sự kiện về di sản văn hóa có thể giúp công chúng, đặc biệt là giới trẻ, hiểu rõ hơn về ý nghĩa của di sản. Khi cộng đồng được kết nối với di sản, quá trình bảo tồn không còn là nỗ lực riêng lẻ mà trở thành một hành trình chung đầy ý nghĩa.
Theo ông Trần Ngọc Quang - Phó Giám đốc Bảo tàng DTHVN, bảo tồn nhà Rông là hành trình kế thừa và sáng tạo liên tục. Vì vậy, cần có cơ chế ghi nhận và lưu giữ tri thức dân gian một cách khoa học để bảo đảm giá trị gốc của di sản. Được biết, trong bối cảnh nguồn vật liệu khan hiếm, ứng dụng công nghệ số trở thành hướng đi tất yếu, các chuyên gia tại bảo tàng đang số hóa toàn bộ thông tin về nhà Rông Ba Na, từ bản vẽ kiến trúc, kích thước, chất liệu đến hoa văn và quá trình dựng nhà để phục vụ nghiên cứu, phục dựng và trưng bày trong tương lai. Đây là bước đi quan trọng giúp di sản “sống” cùng thời gian một cách bền vững.
Có thể nói, câu chuyện về nhà Rông Ba Na ở Bảo tàng DTHVN chính là một trong những giải pháp đổi mới sáng tạo để bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Đổi mới sáng tạo là con đường để văn hóa Việt Nam hòa nhập với dòng chảy thế giới mà không đánh mất bản sắc.
Thúc đẩy đổi mới sáng tạo dựa trên nền tảng văn hóa truyền thống
Việt Nam có một kho tàng văn hóa đồ sộ với hàng chục nghìn di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, gần 8.000 lễ hội dân gian, hơn 5.000 làng nghề, hàng trăm trò chơi dân gian, hàng chục loại hình diễn xướng truyền thống… rất thuận lợi cho các hoạt động, dự án khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cùng văn hóa, lịch sử trong thời đại mới. Đề cập đến đổi mới sáng tạo lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, nhiều ý kiến cho rằng văn hóa truyền thống đa dạng, đặc sắc của đất nước chính là nền tảng để đẩy mạnh các hoạt động đầu tư sáng tạo, đổi mới phát triển mạnh mẽ hơn.

Kiến trúc nhà rông tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. (Ảnh trong bài: BTDTHVN)
Trao đổi với truyền thông, TS Trần Thị Ngọc Minh, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh nêu quan điểm, hoạt động khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo nói chung, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực văn hóa nói riêng được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Hoạt động khởi nghiệp không thể duy trì và phát triển bền vững nếu thiếu khía cạnh văn hóa. Ở chiều ngược lại, văn hóa sẽ trở thành sản phẩm, dịch vụ kinh doanh hiệu quả cho hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Hoạt động khởi nghiệp, sáng tạo góp phần tạo ra thu nhập từ việc khai thác các giá trị văn hóa, là công cụ hữu hiệu để bảo tồn, lưu giữ và quảng bá giá trị văn hóa truyền thống.
Theo PGS.TS Đỗ Hương Lan, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, khởi nghiệp, sáng tạo trong công nghiệp văn hóa không chỉ là khởi nghiệp kinh doanh mà còn là khởi nghiệp về ý tưởng, tư duy, cách kết nối giữa truyền thống - hiện đại, giữa bảo tồn - phát triển, giữa văn hóa bản địa và thị trường toàn cầu. Với kho tàng văn hóa đa dạng, phong phú, Việt Nam có mọi điều kiện để phát triển mạnh mẽ lĩnh vực này nếu có cách tiếp cận đúng đắn, sáng tạo và hợp thời.
PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội khẳng định, các ngành công nghiệp văn hóa đã được xác định như điện ảnh, mỹ thuật, âm nhạc, thiết kế, quảng cáo, thời trang, trò chơi điện tử, đến du lịch văn hóa, xuất bản, truyền hình, nghệ thuật biểu diễn và thủ công mỹ nghệ... đều có điểm chung là sự phụ thuộc sâu sắc vào sức mạnh sáng tạo - yếu tố không thể thay thế bằng vốn đầu tư thuần túy hay công nghệ sản xuất đơn giản. Vì vậy, công nghiệp văn hóa được xem là “vùng đất màu mỡ” cho đổi mới sáng tạo, nơi cảm xúc, bản sắc, nghệ thuật và công nghệ giao thoa để tạo nên những giá trị mới.
Bàn về giải pháp, theo TS Trần Thị Ngọc Minh, để thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực văn hóa ở Việt Nam, các giải pháp cần được thực hiện thống nhất, đồng bộ, trong đó có các giải pháp như tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực văn hóa thời kỳ hội nhập quốc tế. Cùng với đó, các cấp, ngành cần có cơ chế, chính sách linh hoạt đối với hoạt động khởi nghiệp lĩnh vực văn hóa, nhất là chính sách liên quan đến công tác kiểm duyệt, thẩm định tác phẩm, quyền sở hữu trí tuệ; hỗ trợ ưu đãi về thuế, vốn, mặt bằng, tiếp tục tạo thuận lợi cho hoạt động sáng tạo, sản xuất, kinh doanh sản phẩm và dịch vụ từ văn hóa.
Theo PGS.TS Lâm Nhân, Hiệu trưởng Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, với lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật, cần tăng cường kết nối với chuyên gia trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật đến hướng dẫn, tạo điều kiện để sinh viên được trang bị bổ sung kiến thức và kỹ năng khởi nghiệp, tích cực tìm tòi, đổi mới, sáng tạo.
Được biết, Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh và Trường Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức Cuộc thi Khởi nghiệp và Đổi mới sáng tạo cấp Thành phố năm 2025, tạo môi trường thúc đẩy hoạt động đổi mới, sáng tạo các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, kiến trúc, truyền thông, du lịch trong sinh viên, góp phần vào phát triển các ngành công nghiệp văn hóa của đất nước.
Năm 2030, công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP của đất nước
Ngày 14/11/2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký Quyết định số 2486/QĐ-TTg ngày 14/11/2025 Phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Chiến lược).
Theo đó, các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam gồm: Điện ảnh; Mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; Nghệ thuật biểu diễn; Phần mềm và các trò chơi giải trí; Quảng cáo; Thủ công mỹ nghệ; Du lịch văn hóa; Thiết kế sáng tạo; Truyền hình và phát thanh; Xuất bản.
Hướng tới mục tiêu phát triển các ngành công nghiệp văn hóa trở thành các ngành kinh tế quan trọng, Chiến lược đặt ra mục tiêu đến năm 2030 các ngành công nghiệp văn hóa đạt tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 10%/năm và đóng góp 7% GDP của đất nước; năm 2045, các ngành công nghiệp văn hóa phát triển bền vững và đóng góp 9% GDP của đất nước.
Nguồn: https://baophapluat.vn/doi-moi-sang-tao-de-bao-ton-di-san.html






Bình luận (0)