
Lễ trao Huân chương Hữu nghị cho GS Klaus Krickeberg tại Bộ Y tế ngày 25-2-2019 cũng là năm sinh nhật thứ 90 của GS Klaus Krickeberg - Ảnh: tác giả cung cấp
Klaus Krickeberg là người vô cùng yêu mến đất nước Việt Nam, vừa là người bạn lớn của Việt Nam, đồng hành với Việt Nam và giúp đỡ không mệt mỏi ngót nửa thế kỷ. Tôi xin phép kể vài câu chuyện với tư cách là một trong những học trò của ông.
Trong sự công nhận những đóng góp vào sự nghiệp xây dựng của Việt Nam trong 50 năm qua, đặc biệt cho nghiên cứu, đào tạo, ứng dụng các khoa học thống kê và cho việc củng cố ngành y tế công cộng Việt Nam và sự phát triển các quan hệ hữu nghị giữa nhân dân các nước Đức - Pháp - Việt Nam.
Ý kiến từ Đại học Quốc gia TP.HCM dịp trao tiến sĩ danh dự cho GS Klaus Krickeberg
Nhà toán học xuất sắc
Năm 1967, tôi từ Bonn chân ướt chân ráo đến Đại học Heidelberg để "tìm thầy học đạo" và tình cờ quen biết ông mà không biết rằng lúc đó ông đã là người "yêu nước" Việt Nam nhiều hơn tôi rồi và có một ý thức dấn thân rất sớm.
Năm 1964-1965, ông đã gửi tiền cho Vietnam Hilfsaktion, một tổ chức nhân đạo ở Cộng hòa liên bang Đức giúp đỡ Việt Nam. Klaus Krickeberg thuộc giới tinh hoa Đức thời hậu chiến, là nhà toán học làm về xác suất đầu tiên giúp xây dựng lại ngành xác suất từ con số không sau khi Quốc xã phá tan nền khoa học đỉnh cao của nước Đức.
Ông được mời đi diễn thuyết, hầu như khắp nơi: Mỹ, Đan Mạch, Pháp, Liên Xô... Ông được tặng nhiều vinh dự như được bầu làm chủ tịch của Hội Toán học thống kê và xác suất Bernoulli quốc tế (Bernouilli Society for Mathematical Statistics and Probability) nhiệm kỳ 1977-1979 và năm 1983 được bầu làm viện sĩ của "Hàn lâm viện Khoa học Đức Leopoldina", nơi mà Albert Einstein và David Hilbert cũng từng là thành viên.
Những năm ở Heidelberg tôi thường nghe ông giảng bài, phải nói đó là một nghệ thuật mà ông là một nghệ sĩ. Ông vào lớp chỉ có một miếng giấy nhỏ ghi dàn bài trong túi khi cần, ngoài ra ông giảng bài như diễn thuyết, thao thao bất tuyệt, duyên dáng, hay làm sao, mỗi bài giảng là một masterpiece.
Mối lương duyên với Việt Nam
Hè năm 1974, một khúc quanh lớn diễn ra trong đời ông. Nhận lời mời của Viện Toán Việt Nam (Hà Nội), Klaus Krickeberg đi xe lửa từ thành phố Bielefeld, nơi ông đang làm giáo sư ngành toán xác suất và thống kê, đi xuyên qua Tây Á Lợi Á đến Bắc Kinh rồi vòng xuống Hà Nội, mất khoảng mười mấy ngày. Nó đánh dấu một cuộc "phiêu lưu", theo tiếng gọi của con tim, trên con đường sự nghiệp của ông.
Trên đường đi, ông tranh thủ soạn những bài giáo trình toán - bằng tiếng Việt do ông tự học, ngôn ngữ không biết thứ mấy mà ông quyết tâm học, chuẩn bị cho các buổi thuyết trình tại Hà Nội. Lúc đó ông mới 45 tuổi.
Tại Hà Nội, ông gặp được các trí thức hàng đầu lúc bấy giờ, bộ trưởng giáo dục Tạ Quang Bửu, GS Lê Văn Thiêm, Tôn Thất Tùng... Các trí thức hàng đầu rất niềm nở và có tinh thần học hỏi cao. Việt Nam (Hà Nội) lúc đó đang bị cô lập, cho nên gặp một nhà toán học đến từ Đức là một điều rất thú vị. Họ "đặt hàng" rất nhiều cho ông về những đề tài nghiên cứu lấy toán làm công cụ ứng dụng.
Cũng vào đầu năm 1978, một lãnh đạo khác của ngành y tế Việt Nam đã tiếp xúc với tôi. Đó là nhà vi rút học Hoàng Thủy Nguyên, người đã nghiên cứu ở Đông Đức và sau đó là giám đốc của "Viện Vệ sinh dịch tễ trung ương", gọi tắt là "Viện Vệ sinh dịch tễ", nguyên là Viện Pasteur Hà Nội, có chức năng phòng ngừa và kiểm soát các bệnh truyền nhiễm.
Ông Nguyên hỏi về các phương pháp toán học trong dịch tễ học. Đó chính là chủ đề của buổi nói chuyện về các bệnh truyền nhiễm. Câu hỏi có vẻ vô tình của ông đã trở thành nguồn gốc của sự hợp tác được tiếp diễn tích cực suốt 35 năm sau đó.

GS Klaus Krickeberg thích ăn “bụi” ở Việt Nam - Ảnh: N.X.X.
Học tiếng Việt và văn hóa Việt
Trở lại Bielefeld từ chuyến đi Hà Nội lịch sử, ông triển khai một loạt hoạt động ủng hộ Việt Nam như tổ chức "Tuần lễ Việt Nam" cùng hội sinh viên ở đó, chiếu phim Đường mòn Hồ Chí Minh, tổ chức gửi sách khoa học từ Đức về Việt Nam, thuyết trình về ngành toán học Việt Nam tại Đức và Pháp.
Sau chuyến đi Việt Nam, ông chuyển tiếp sang Paris, được bổ nhiệm làm "giáo sư ngoại hạng" (classe exceptionnelle) tại Đại học Paris V. Ông là người có hai quốc tịch. Từ trẻ ông đã theo học tại trường trung học phổ thông Pháp ở Berlin cho đến tú tài năm 1946.
Tại Paris, ông ghi danh học tiếng Việt và văn hóa Việt Nam, lấy được bằng cử nhân, một nỗ lực phi thường. Ông biết nhiều thứ tiếng như Pháp, Anh, Nga, Đan Mạch, Tây Ban Nha và tiếng Hy Lạp hiện đại. Ông từng giảng dạy ở Đại học Chile bằng tiếng Tây Ban Nha. Lần này ông quyết theo đuổi học tiếng Việt Nam.
Năm 1978, sau khi chuẩn bị quy mô, Klaus Krickeberg trở lại Việt Nam ba lần liên tiếp trong năm để giảng bài và làm hội thảo tại nhiều nơi, trong đó có TP.HCM, làm việc với nhiều đại học, viện nghiên cứu và Bộ Nông lâm, Tổng cục Thống kê, đề nghị cách dạy toán có thực nghiệm hơn cho trường học...
Ông tiếp tục giảng dạy, làm semina, chăm sóc sinh viên, ứng viên tiến sĩ, gửi các nhà nghiên cứu ra nước ngoài để nâng cao chất lượng. Ông đi đến nhiều làng quê để biết về hệ thống y tế Việt Nam.
Ông viết những bản ghi nhớ, gửi Bộ Y tế các đề nghị. Ông nhận được sự hỗ trợ của một số tổ chức nước ngoài như như Chương trình 10 năm của Bộ Ngoại giao Pháp tập huấn cán bộ hệ thống y tế; Chương trình UNICEF về kiểm soát bệnh tiêu chảy, mở rộng chủng ngừa và sức khỏe bà mẹ và trẻ em, kiểm soát bệnh sốt rét, lao, dịch tễ học tại các hệ thống làng xã; chương trình của GTZ (Tổ chức Hợp tác kỹ thuật của Đức) về kế hoạch hóa gia đình; "Chương trình phát triển các hệ thống y tế" của cộng đồng châu Âu.
Từ năm 1980 trở đi, tại Paris ông vừa học, nghiên cứu và đã dạy 12 năm liền những ý tưởng về "dịch tễ học" và y tế công cộng kèm theo toán ứng dụng, những điều ông sẽ ứng dụng tại Việt Nam. Những người Việt công tác với ông đều rất trân quý ông, coi ông là người bạn lớn của Việt Nam.
Từ năm 1978, Klaus Krickeberg nhận hướng dẫn nghiên cứu khoa học cho nhiều nhà khoa học trẻ đến trình độ tiến sĩ, tạo điều kiện cho nhiều nhà khoa học Việt Nam tham dự các hội thảo quốc tế trong ngành.
Năm 1998 ông nghỉ hưu ở Pháp, "Chương trình các hệ thống y tế" cũng kết thúc năm 2004 với báo cáo 45 trang của ông nhưng ông chưa nghỉ hưu đối với Việt Nam. Ông khởi động một đề án mười năm tới, 2006-2016, được Quỹ Đức "Else Kröner-Stiftung" tài trợ nhằm phát triển y tế công cộng mà điểm khởi đầu là Đại học Thái Bình do GS Hoàng Thủy Nguyên giới thiệu. Đề án này sau đó được mở rộng trên quy mô lớn đến các tỉnh khác.
Sau 10 năm lao động cật lực ở ba miền mà ông đã đúc kết những nhận xét cần phải cải tổ ngành y tế công cộng Việt Nam để nâng cao vị thế của ngành và chất lượng lên hàng quốc tế. Đã có hơn 600 nhà khoa học tham gia các workshop ông tổ chức. Ông có rất nhiều học trò và đồng nghiệp trên nhiều miền đất nước.
Năm 2014, Đại học Quốc gia TP.HCM trao tặng ông honoris causa, danh hiệu tiến sĩ danh dự cao quý cho những đóng góp to lớn và ý nghĩa của ông cho Việt Nam.
Tôi có qua Paris thăm ông một lần. Căn hộ ông (và Angela Zassenhaus, người bạn gái mà ông sống chung) ở được trang trí với những bàn ghế làm bằng mây nứa đem từ Việt Nam sang.
Ông rất thích và hãnh diện có được những sản phẩm thủ công mỹ nghệ đó từ Việt Nam. Đó có lẽ không phải là những sản phẩm tre nứa bình thường mà là những sản phẩm mang tính biểu tượng của một dân tộc nhỏ nhưng có nền văn hóa bất khuất và hiện đang đấu tranh cho độc lập, tự do để xây dựng một tương lai mới mà ông có cam kết giúp đỡ.
Nhà nước Việt Nam tặng Huân chương Hữu nghị
Năm 2019, Klaus Krickeberg tròn 90 tuổi. Nhà nước Việt Nam quyết định trao Huân chương Hữu nghị cho ông để cảm ơn những đóng góp quý báu và kiên trì của ông. Chuyến đi tháng 2-2019 để nhận lãnh huân chương là chuyến thứ 33 của ông đến Việt Nam, tức trung bình mỗi 1,36 năm ông thăm đất nước này một lần.
Với sự hỗ trợ của Quỹ Đức "Else Kröner-Stiftung", ông đã làm việc với vô số các viện, đại học, phân khoa từ Bắc, Trung, Nam và cao nguyên. Ông không phải chỉ đứng trên bục giảng mà còn đi "thực địa" đến thăm các trạm y tế xã để xem họ hoạt động thế nào. Ông đã thăm trên 50 trạm như thế.
TS NGUYỄN XUÂN XANH
Nguồn:https://tuoitre.vn/giao-su-klaus-krickeberg-hanh-trinh-50-nam-voi-viet-nam-20251204110354267.htm






Bình luận (0)