Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Hoàng Trọng Phu và OCOP hôm nay

Những gian hàng lụa, gốm, sơn mài tại số 176 đường Quang Trung (Hà Đông, Hà Nội) trưng bày giới thiệu các sản phẩm OCOP (Chương trình mỗi xã một sản phẩm) gợi nhớ một hình ảnh quen thuộc từ hơn một thế kỷ trước.

Hà Nội MớiHà Nội Mới25/10/2025


Khi đó, Tổng đốc Hoàng Trọng Phu đã dựng nên những “sân khấu” cho làng nghề: Tổ chức xưởng, lập phòng trưng bày, mở triển lãm và đưa sản phẩm thủ công vào thị trường. Câu chuyện OCOP hôm nay dường như vẫn có hình bóng của ông.

go.jpg

Giới thiệu các sản phẩm tại Điểm trưng bày, giới thiệu và quảng bá sản phẩm OCOP Thủ đô (số 176 đường Quang Trung, phường Hà Đông).

Người thắp lửa thực nghiệp cho Hà Đông

Sinh năm 1872, du học tại Trường Thuộc địa ở Paris từ năm 1892, trở về làm quan và giữ chức Tổng đốc Hà Đông hơn 20 năm, Hoàng Trọng Phu sớm dùng tư duy “thực nghiệp” để tổ chức lại sản xuất nông thôn.

Ông viết và in cuốn “Les Industries familiales de Hadong” (Nghề thủ công gia đình ở Hà Đông) đầu thập niên 1930 - một chuyên khảo liệt kê, mô tả hệ sinh thái nghề truyền thống của cả tỉnh, từ lụa Vạn Phúc, sơn mài, khảm trai đến đan lát, thêu ren, như một bản “cẩm nang” tổ chức ngành nghề địa phương.

Cuốn sách thứ hai, “Les Marchés de la province de Hadong” (Các chợ ở tỉnh Hà Đông - năm 1938), lại đi vào trục lưu thông - chợ búa, phiên họp, mạng lưới trao đổi - tức là “hạ tầng mềm” của kinh tế làng nghề. Chỉ riêng việc đặt bút viết hai cuốn sách này cũng cho thấy ông tiếp cận làng nghề không bằng mỹ cảm hoài cổ mà bằng con mắt quản trị chuỗi giá trị.

Nhưng ông không dừng ở nghiên cứu. Mùa thu 1935, tại các “Ateliers des Arts indigènes” (Xưởng mỹ nghệ bản xứ) ở Hà Đông, một cuộc triển lãm lụa tơ tằm địa phương đã được khai mạc bởi Toàn quyền Robin. Báo chí hồi đó mô tả đây là “biểu hiện mới của sức sống một ngành công nghiệp địa phương độc đáo và vững mạnh, nuôi sống nhiều chục nghìn người, nhất là ở Hoài Đức”. Ngôn ngữ báo chí thời ấy nghe rất “OCOP”: Nâng chất, kết nối thị trường liên vùng và vai trò dẫn dắt của chính quyền địa phương.

Vai trò dẫn dắt của chính quyền dưới tay Hoàng Trọng Phu thể hiện rõ ở cách ông phối hợp công - tư. Một mặt, ông tổ chức đào tạo, mời nghệ nhân giỏi đứng lớp, chuẩn hóa mẫu mã, đưa phái đoàn thợ thủ công đi dự triển lãm; mặt khác, ông chủ động “kéo” thị trường: Gắn lụa Hà Đông với dòng thương mại ở Nam Kỳ, dùng truyền thông làm kênh quảng bá, đồng thời cải thiện mạng lưới chợ - nơi dòng tiền và thông tin chảy về. Việc ông viết lời tựa cho cuốn “Các chợ tỉnh Hà Đông” không chỉ là “làm văn” mà là cách đóng dấu vào đúng mắt xích phân phối của chuỗi ngành nghề.

Không chỉ mở mang trong phạm vi tỉnh, Tổng đốc Hoàng Trọng Phu còn thử nghiệm chính sách di dân gắn với phân công lao động vùng - điều mà ngày nay ta gọi là “tổ chức không gian sản xuất”.

Năm 1938, theo đề nghị của Quản đạo Đà Lạt Trần Văn Lý, ông cử Thương tá Canh nông Hà Đông Lê Văn Định vay 500 đồng từ quỹ Ủy ban Tương tế xã hội Bắc Kỳ (trong đó chuyển trước 300 đồng vào Đà Lạt để chuẩn bị cơ sở vật chất), tuyển chọn nông phu thạo nghề hoa - rau, huấn luyện kỹ thuật theo mô hình châu Âu rồi đưa đi lập ấp. Đợt đầu 33 người lên tàu ngày 29-5-1938; đầu năm 1939 thêm 19 người; giai đoạn 1940-1942 thêm 47 người; cuối năm 1943 có 57 gia đình ở ấp Hà Đông (Đà Lạt). Câu chuyện di dân cho thấy cách ông “mở thị trường” cho kỹ năng làng nghề vào một đô thị tiêu dùng mới (Đà Lạt), đồng thời giải quyết sức ép dân cư đồng bằng.

Từ “quy trình” nghiên cứu - tổ chức sản xuất - mở chợ - khai thị ấy, Hà Đông thập niên 1930 trở thành một nút liên kết của hàng thủ công Bắc Kỳ. Những cuộc triển lãm lụa được tổ chức ngay tại xưởng, những lô hàng đi Nam Kỳ, và một mạng lưới chợ - từ sông Nhuệ đến La Khê, Vạn Phúc, Hoài Đức - đã tạo nên “hóa đơn giá trị gia tăng” cho làng nghề khi ấy. Ngày nay đọc lại dòng “nuôi sống nhiều chục nghìn người” trong biên niên báo chí, ta không thể không liên tưởng tới mục tiêu tăng thu nhập hộ sản xuất của các chủ thể OCOP.

Ba “điểm chạm” giữa Hoàng Trọng Phu và OCOP

OCOP được Chính phủ phê duyệt năm 2018 (Quyết định 490/QĐ‑TTg) và tiếp tục cho giai đoạn 2021-2025 (Quyết định 919/QĐ‑TTg). Về bản chất, OCOP cũng đi đúng “quy trình” ấy: Phát triển sản phẩm có lợi thế theo chuỗi giá trị; thiết kế bộ tiêu chí, xếp hạng sao; kết nối phân phối; đẩy mạnh xúc tiến thương mại. Chính phủ đã tổng kết, đây là một động lực quan trọng của kinh tế nông thôn, với cách làm chuyển từ chú trọng sản lượng sang đề cao chất lượng, bản sắc, văn hóa và kinh tế tuần hoàn - phát thải thấp.

Số liệu cập nhật đến tháng 6-2025, cả nước có khoảng 16.855 sản phẩm OCOP đạt từ 3 sao trở lên; trong đó 72,8% là 3 sao, 26,7% là 4 sao và 126 sản phẩm 5 sao. Khoảng 60% chủ thể cho biết doanh thu tăng trung bình 18%/năm; gần 40% chủ thể là phụ nữ, 17% là đồng bào dân tộc thiểu số - những chỉ dấu cho thấy OCOP không chỉ là chương trình sản phẩm mà là can thiệp xã hội có chiều sâu. Về quy trình, công tác đánh giá gần đây được điều chỉnh theo hướng tinh gọn, chuyển phân hạng 3 sao lên cấp tỉnh để ổn định thực thi.

Đặt Hoàng Trọng Phu bên cạnh OCOP hôm nay, có thể thấy có ba điểm tương đồng, hay là “điểm chạm” nổi bật.

Thứ nhất, tư duy kinh tế - hàng hóa gắn với vai trò điều phối của nhà nước địa phương. Ở Hà Đông xưa, chính quyền tỉnh là “nhạc trưởng”: Đặt chuẩn, tổ chức xưởng - lớp, tạo sân chơi triển lãm và kéo dòng cầu liên vùng (Nam Kỳ). OCOP, ở chiều hiện đại, cũng giao vai trò “nhạc trưởng” cho chính quyền địa phương qua việc ban hành tiêu chí, tổ chức chấm sao, mở điểm giới thiệu - quảng bá và hỗ trợ xúc tiến tiêu thụ. Trung tâm trưng bày sản phẩm OCOP tại số 176 đường Quang Trung (Hà Đông) - nơi các ngành gốm, sơn mài, vàng quỳ… luân phiên triển lãm - thực chất là một “Ateliers” thời số hóa, nơi tiêu chuẩn gặp câu chuyện bản địa.

Thứ hai, ông Hoàng Trọng Phu hiểu rõ “sản phẩm chỉ là nửa câu chuyện”; nửa còn lại là chợ - mạng lưới tiêu thụ. “Các chợ ở tỉnh Hà Đông” của ông đặt trọng tâm vào lịch phiên, vị trí, mối liên kết giữa làng nghề và điểm bán - giống cách OCOP buộc sản phẩm đi kèm kế hoạch thị trường, bao bì, truy xuất và kết nối siêu thị, thương mại điện tử. Từ các hội chợ OCOP, các trung tâm thiết kế - giới thiệu sản phẩm đến các gian hàng OCOP trong hệ thống bán lẻ, “trục chợ” ngày nay đã dài hơn, nhưng logic giống hệt: Không có thị trường, làng nghề sẽ mãi “đèn nhà ai nấy rạng”.

Thứ ba, mở không gian sản xuất - tiêu dùng để nâng giá trị kỹ năng. Đưa nông phu Hà Đông lên Đà Lạt lập ấp 1938-1943 là một quyết sách… giống OCOP theo cách rất hiện đại: Dịch chuyển kỹ năng (hoa - rau - nghề vườn), đón đầu nhu cầu đô thị nghỉ dưỡng, tạo thêm đầu ra, rồi để cộng đồng tự lan tỏa. Khi ấp Hà Đông hình thành và hoạt động hiệu quả, lợi ích không chỉ ở người đi mà cả ở làng gốc: Nghề có thị trường rộng hơn, truyền thống kỹ năng được “bồi bổ” bằng công nghệ mới, vốn tích lũy trở lại quê nhà. OCOP hôm nay cũng đang đi ra khỏi “chợ tỉnh”: kết nối du lịch nông thôn, kinh tế xanh - tuần hoàn và hướng tới thương hiệu quốc gia.

Tất nhiên, lịch sử cũng nhắc ta về giới hạn. Hệ thống thuộc địa có thể giúp “kéo” cung - cầu, nhưng nó cũng tạo lệ thuộc vào mạng lưới quyền lực và sở thích của giới tiêu dùng đô thị thuộc địa; khi thị trường ấy thay đổi, làng nghề dễ tổn thương. Vì thế, cái mà OCOP phải làm tốt hơn Hoàng Trọng Phu là đa dạng hóa thị trường, nâng chuẩn quốc tế và nhất quán về chất lượng - điều mà các quyết định, hướng dẫn mới đang cố gắng siết chặt.

Từ câu chuyện Hà Đông xưa nhìn lại, có thể rút vài gợi ý chính sách rất cần thiết cho OCOP giai đoạn tới. Một là, tái tạo mô hình “xưởng - phòng trưng bày - lớp học” ngay tại cụm làng nghề, không chỉ để bán mà để thiết kế - thử nghiệm - chuẩn hóa sản phẩm.

Hai là, làm lại “sổ chợ OCOP” theo vùng - phiên chợ nghề theo mùa vụ, kết nối chủ thể OCOP với những “điểm đến tiêu dùng” ổn định (trung tâm thương mại, phố đi bộ, sân bay), bởi chính ông Hoàng Trọng Phu đã chứng minh: Chợ là hạ tầng quan trọng không kém xưởng.

Ba là, khuyến khích “di dân kỹ năng” kiểu mới: Đưa thợ lành nghề Bắc - Trung - Nam đi “đóng trạm” huấn luyện tại các vùng nguyên liệu, điểm du lịch mới, ngắn hạn 3-6 tháng, đi kèm chính sách tín dụng nhỏ - thứ mà Ủy ban Tương tế xã hội Bắc Kỳ đã làm cách đây 90 năm.

Và bốn là, kể chuyện nghề bằng dữ liệu, mỗi sản phẩm OCOP cần một “hồ sơ số” minh bạch như cách Hoàng Trọng Phu đã viết cả một chuyên khảo cho kinh tế làng nghề Hà Đông - không có dữ liệu, câu chuyện khó thuyết phục được thị trường.

Điểm cuối cùng, nhưng có lẽ là cốt lõi, cả Hoàng Trọng Phu lẫn OCOP đều chọn đi từ “nhỏ mà tinh” - từ một dải lụa, một tấm sơn, một món mây tre - rồi mới mơ chuyện lớn. Thứ tư duy “khởi đầu bằng chất” ấy là cú gài số bền vững nhất cho kinh tế nông thôn. Khi sản phẩm tốt, câu chuyện hay, chuẩn mực rõ ràng, thì các chủ thể - từ nghệ nhân đến hợp tác xã - mới có cơ hội vượt khỏi thôn làng. Con đường ấy đã được một vị tổng đốc vạch ra bằng những xưởng lụa, những phiên chợ và cả một ấp hoa ở cao nguyên lạnh. Và hôm nay, với OCOP, chúng ta đang tiếp tục đi trên con đường ấy - bằng pháp lý hiện đại, bằng dữ liệu và bằng những “ateliers” mới giữa lòng các làng nghề Hà Nội.


Nguồn: https://hanoimoi.vn/hoang-trong-phu-va-ocop-hom-nay-720854.html


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Mùa Thu Hà Nội dịu dàng qua từng con phố nhỏ
Gió lạnh 'chạm phố', người Hà Nội rủ nhau check-in đầu mùa
Sắc tím Tam Cốc – Bức họa diệu kỳ giữa lòng Ninh Bình
Đẹp ngất ngây ruộng bậc thang ở thung lũng Lục Hồn

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

NHÌN LẠI HÀNH TRÌNH KẾT NỐI VĂN HÓA - LỄ HỘI VĂN HÓA THẾ GIỚI TẠI HÀ NỘI 2025

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm