Sáng nay, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, các đại biểu Quốc hội đã bỏ phiếu và thống nhất thông qua Nghị quyết Phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035.
Chương trình gồm hai giai đoạn: 2026-2030 và 2031-2035.
Theo đó, nghị quyết nhằm bảo đảm mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khỏe ban đầu, phòng bệnh từ sớm, từ xa, ngay tại cơ sở, hạn chế bệnh tật; gia tăng tỷ lệ sinh, phấn đấu tỷ số giới tính khi sinh đạt mức cân bằng tự nhiên, thích ứng với già hóa dân số, nâng cao chất lượng dân số; tăng cường chăm sóc cho các nhóm dễ bị tổn thương; góp phần nâng cao sức khỏe thể chất, tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của Nhân dân, xây dựng một nước Việt Nam khỏe mạnh.
Mục tiêu cụ thể là góp phần thực hiện mục tiêu tỷ lệ xã, phường, đặc khu đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã là 90% vào năm 2030 và 95% đến năm 2035; phấn đấu tỷ lệ người dân được lập sổ sức khỏe điện tử và quản lý sức khỏe theo vòng đời đạt 100% từ năm 2030.
Đến năm 2030, 100% trung tâm kiểm soát bệnh tật (CDC) các tỉnh, thành phố đủ năng lực xét nghiệm tác nhân, kháng nguyên, kháng thể các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, chất lượng nước sạch, vệ sinh trường học theo quy định của Bộ Y tế.
Tỷ lệ trạm y tế xã, phường, đặc khu trên toàn quốc triển khai thực hiện dự phòng, quản lý, điều trị một số bệnh không lây nhiễm theo hướng dẫn của Bộ Y tế đến năm 2030 đạt 100% và duy trì đến năm 2035.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 5 tuổi đến năm 2030 giảm xuống dưới 15% và đến năm 2035 giảm xuống dưới 13%. Tỷ suất sinh thô đến năm 2030 tăng thêm 0,5‰ so với năm 2025 và đến năm 2035 tăng thêm 0,5‰ so với năm 2030.
Tỷ số giới tính khi sinh đến năm 2030 giảm xuống dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống và đến năm 2035 giảm xuống dưới 107 bé trai/100 bé gái sinh ra sống.
Tỷ lệ cặp nam, nữ được tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn đạt 90% vào năm 2030 và 95% vào năm 2035; 70% phụ nữ mang thai được tầm soát ít nhất 4 loại bệnh tật bẩm sinh phổ biến nhất vào năm 2030 và 90% vào năm 2035; 90% trẻ sơ sinh được tầm soát ít nhất 5 loại bệnh bẩm sinh phổ biến nhất vào năm 2030 và đạt 95% vào năm 2035.
Số lượng người dễ bị tổn thương được tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tại các cơ sở chăm sóc xã hội đến năm 2030 tăng thêm 70% so với năm 2025 và đến năm 2035 tăng thêm 90% so với năm 2030.
Đối tượng thụ hưởng của Chương trình là mọi người dân Việt Nam, trong đó ưu tiên các đối tượng ở vùng có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, miền núi, biên giới, hải đảo; người có công với cách mạng, người cao tuổi, bà mẹ, trẻ em, các cặp vợ chồng và cá nhân trong độ tuổi sinh đẻ, người khuyết tật, người di cư, lao động các khu công nghiệp và các đối tượng ưu tiên khác theo quy định của Chính phủ.
Chương trình được triển khai trên cả nước, ưu tiên vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, miễn núi, biên giới, hải đảo.
Tổng nguồn vốn thực hiện giai đoạn 2026-2030 là 88.635 tỷ đồng, trong đó Vốn ngân sách Trung ương là 68.000 tỷ đồng (bao gồm vốn đầu tư công: 39.200 tỷ đồng; kinh phí thường xuyên: 28.800 tỷ đồng); vốn ngân sách địa phương là 20.041 tỷ đồng (bao gồm vốn đầu tư công: 8.492 tỷ đồng; kinh phí thường xuyên: 11.549 tỷ đồng); nguồn vốn khác dự kiến 594 tỷ đồng.
Căn cứ kết quả thực hiện của Chương trình giai đoạn 2026-2030, Chính phủ trình Quốc hội quyết định nguồn lực thực hiện Chương trình giai đoạn 2031-2035./.
Nguồn: https://www.vietnamplus.vn/quoc-hoi-chot-dau-tu-hon-886-ty-dong-de-nang-cao-suc-khoe-nguoi-dan-post1082383.vnp






Bình luận (0)