Hội thảo diễn ra trong bối cảnh Đà Nẵng được định hướng trở thành một trong ba trung tâm công nghiệp văn hóa trọng điểm của cả nước, đồng thời là địa phương được ưu tiên đầu tư xây dựng Trung tâm thiết kế sáng tạo quốc gia theo Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030. Thành phố đặt mục tiêu đến năm 2030, doanh thu từ công nghiệp văn hóa đóng góp khoảng 7,5% GRDP, trở thành ngành kinh tế quan trọng, tạo động lực mới cho phát triển bền vững.
Sáng tác còn ở dạng “tác phẩm đơn lẻ”
Phát biểu đề dẫn, nhà thơ Nguyễn Nho Khiêm, Chủ tịch Liên hiệp các Hội văn học - nghệ thuật thành phố Đà Nẵng nhấn mạnh, vai trò của đội ngũ văn nghệ sĩ thành phố không chỉ với tư cách người sáng tạo tác phẩm, mà còn là lực lượng sản xuất nội dung cốt lõi cho toàn bộ chuỗi giá trị công nghiệp văn hóa.
“Với gần 1.500 hội viên, trải rộng từ văn chương, âm nhạc, sân khấu, mỹ thuật đến nhiếp ảnh, kiến trúc, văn nghệ dân gian. Nhiều tác giả đã đoạt giải thưởng Trung ương, có tác phẩm in dấu trong công chúng. Đây là “mỏ nội dung” quan trọng cho công nghiệp văn hóa nếu biết cách tổ chức, khai thác. Tuy nhiên phần lớn thành quả sáng tác vẫn chủ yếu tồn tại ở dạng “tác phẩm đơn lẻ”, chưa phát triển thành chuỗi sản phẩm công nghiệp văn hóa có giá trị kinh tế - xã hội bền vững”, nhà thơ Nguyễn Nho Khiêm nhấn mạnh.
Về văn học, Đà Nẵng - Quảng Nam đã có nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn, ký, thơ về lịch sử, ký ức đô thị, chiến tranh cách mạng, biển đảo… nhưng số tác phẩm được chuyển thể thành phim truyện, phim tài liệu, sân khấu, sách nói, sách điện tử, truyện tranh, game, tour trải nghiệm… còn rất hạn chế.
Về âm nhạc, có nhiều ca khúc hay về Đà Nẵng nhưng số tác phẩm được đầu tư sản xuất MV chuyên nghiệp, được khai thác bản quyền, đưa vào chuỗi du lịch - lễ hội - giải trí, trở thành “nhạc hiệu” nhận diện thành phố vẫn còn ít.
Về mỹ thuật, nhiếp ảnh, lượng tranh, tượng, ảnh nghệ thuật về Đà Nẵng - Quảng Nam khá lớn, song đa số dừng lại ở triển lãm, giải thưởng, trưng bày; chưa được “thiết kế lại” để trở thành sản phẩm lưu niệm, bản in giới hạn, sản phẩm số, hay nội dung nền cho thiết kế sáng tạo.
Đặc biệt, công nghiệp văn hóa đòi hỏi một chuỗi giá trị hoàn chỉnh gồm sáng tạo - sản xuất - phân phối - tiếp thị - tiêu dùng – tái đầu tư. Chuỗi giá trị này mới chỉ dừng lại ở sáng tạo – giải thưởng, thiếu các mắt xích quan trọng như nhà sản xuất độc lập, công ty truyền thông - giải trí, studio thiết kế, đơn vị khai thác bản quyền, kênh phân phối - tiếp thị chuyên nghiệp, cơ chế chia sẻ lợi nhuận công bằng giữa nghệ sĩ - nhà sản xuất - đơn vị phân phối.
Trong khi chiến lược công nghiệp văn hóa quốc gia nhấn mạnh vai trò chuyển đổi số, nhưng phần lớn tác phẩm, hoạt động của 9 chuyên ngành còn phụ thuộc vào xuất bản giấy truyền thống, sân khấu biểu diễn trực tiếp, trưng bày vật lý tại triển lãm bảo tàng…
Nhà nghiên cứu Bùi Văn Tiếng cho rằng, công nghiệp văn hóa trên lĩnh vực biểu diễn ở Đà Nẵng sẽ phát triển thuận lợi hơn khi Nhà hát nghệ thuật truyền thống Đà Nẵng tập hợp và phát huy đúng mức lực lượng tác giả kịch bản, đạo diễn và diễn viên sau khi sáp nhập; nhưng trong công nghiệp văn hóa, thương hiệu có vai trò cực kỳ quan trọng, vì thế sẽ là một thương hiệu mạnh nếu Nhà hát nghệ thuật truyền thống được đổi tên thành Nhà hát nghệ thuật truyền thống Nguyễn Hiển Dĩnh.
Để đáp ứng yêu cầu mới đối với phát triển văn học nghệ thuật và công nghiệp văn hóa, TS. Vũ Đình Anh, Học viện Chính trị khu vực III đề xuất, thành phố cần xây dựng chính sách văn hóa Việt Nam trong giai đoạn mới có sự kết hợp giữa lý luận hiện đại và truyền thống dân tộc, giữa thể chế kiến tạo và thị trường sáng tạo, giữa đào tạo tài năng và nâng cao thị hiếu thẩm mỹ của công chúng, giữa đầu tư hạ tầng vật chất và nền tảng số, giữa hội nhập và giữ vững bản sắc, giữa tự do sáng tạo và trách nhiệm công dân… Thực hiện tốt những yêu cầu này sẽ góp phần đưa nền văn học nghệ thuật và công nghiệp văn hóa Việt Nam vừa phục vụ nhu cầu xã hội, vừa phục vụ sự phát triển kinh tế nhà nước.
Cần xác lập vai trò của nghệ thuật truyền thống
Thành phố Đà Nẵng là nơi hội tụ hai di sản văn hóa thế giới là phố cổ Hội An và khu đền tháp Chăm Mỹ Sơn cùng hàng trăm di tích cấp quốc gia và di tích cấp tỉnh, thành phố; cùng với các loại hình di sản văn hóa phi vật thể - linh hồn của văn hóa đất Quảng. Trong chiến lược phát triển du lịch quốc gia, di sản văn hóa được xác định là một trụ cột của du lịch văn hóa.
Sự phát triển mạnh mẽ của du lịch sự kiện, du lịch trải nghiệm và du lịch đêm ở Đà Nẵng - Hội An mở ra cơ hội lớn cho các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống. Tuy nhiên, việc khai thác các giá trị này vẫn còn phân tán, thiếu chiến lược liên kết giữa nghệ thuật truyền thống và sản phẩm du lịch. Chính vì vậy, việc nhìn nhận lại và phát huy giá trị của tuồng, bài chòi và hát bả trạo trở thành yêu cầu cấp thiết.
Nhà nghiên cứu Hồ Xuân Tịnh, Hội Văn nghệ dân gian thành phố đề nghị, thành phố cần có đề án nhằm xác lập vai trò nghệ thuật biểu diễn truyền thống trong tổng thể quy hoạch văn hóa. Đề án này không chỉ định hướng cho ngành văn hóa mà còn lồng ghép vào chiến lược phát triển du lịch thành phố. Trong đó, tuồng, bài chòi và hát bả trạo được xác định là 3 “trụ cột di sản biểu diễn”.
Bên cạnh đó cần có cơ chế hỗ trợ và chính sách bảo tồn - sáng tạo; khuyến khích nghệ sĩ trẻ tham gia sáng tạo đa phương tiện kết hợp tuồng, bài chòi với phim hoạt hình, phim ngắn, sân khấu ảo hoặc các ứng dụng du lịch thông minh.
Về vấn đề này, TS. Hoàng Thị Hường, Trường Ngôn ngữ - xã hội nhân văn Đại học Duy Tân cho rằng, phát huy văn nghệ dân gian trong bối cảnh công nghiệp văn hóa đòi hỏi một tư duy kết hợp mô hình bảo tồn truyền thống sang mô hình quản trị di sản theo hệ sinh thái sáng tạo.
“Với cách tiếp cận này, di sản không chỉ được lưu giữ như ký ức văn hóa, mà được kích hoạt thông qua các mắt xích: tư liệu hóa - số hóa - sáng tạo nội dung - phân phối - thương mại hóa, dưới sự tham gia của Nhà nước, cộng đồng, doanh nghiệp sáng tạo và các thiết chế văn hóa - giáo dục. Đối với Đà Nẵng, việc kiến tạo một hệ sinh thái như vậy là điều kiện tiên quyết để biến văn nghệ dân gian thành một nguồn lực cho tăng trưởng văn hóa và kinh tế”, TS. Hoàng Thị Hường gợi ý.
Với tầm nhìn dài hạn, văn nghệ dân gian hoàn toàn có thể trở thành động lực thúc đẩy hình ảnh một Đà Nẵng sáng tạo, nhân văn và khác biệt, đồng thời đóng góp thiết thực vào chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa của thành phố. Điều quan trọng là các giải pháp cần được triển khai nhất quán, có trọng tâm và được điều chỉnh linh hoạt theo sự vận động của đời sống văn hóa - kinh tế. Khi đó, các giá trị dân gian không chỉ được bảo tồn như ký ức cộng đồng mà sẽ tiếp tục được tái tạo, đổi mới và lan tỏa, góp phần bồi đắp sức sống văn hóa và nâng cao năng lực cạnh tranh của thành phố Đà Nẵng trong tương lai.
Nguồn: https://baodanang.vn/van-hoc-nghe-thuat-da-nang-voi-cong-nghiep-van-hoa-3313836.html










Bình luận (0)