Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

80 năm cây lúa Việt: Từ nạn đói 1945 đến hạt gạo ngon nhất thế giới

(Dân trí) - 80 năm qua, ngành lúa gạo không chỉ vượt qua đói nghèo mà còn khẳng định vị thế cường quốc gạo, là minh chứng cho sự đổi mới mạnh mẽ.

Báo Dân tríBáo Dân trí19/08/2025


80 năm cây lúa Việt: Từ nạn đói 1945 đến hạt gạo ngon nhất thế giới - 1

80 năm cây lúa Việt: Từ nạn đói 1945 đến hạt gạo ngon nhất thế giới - 3

Đất nước hôm nay thuộc nhóm dẫn đầu thế giới về xuất khẩu gạo, nhưng đã từng trải qua thời kỳ người dân phải ăn cơm độn ngô, sắn, bo bo để cầm cự qua bữa.

Trước năm 1945, Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa xuất khẩu lớn của Đông Dương. Tuy nhiên, phần lớn nông dân vẫn sống trong cảnh nghèo đói do thiên tai và ách bóc lột của chế độ thực dân.

Đỉnh điểm là nạn đói năm 1945 khiến khoảng 2 triệu đồng bào ta tử vong vì thiếu lương thực.

Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền non trẻ đã phát động phong trào "hũ gạo cứu đói" để san sẻ và cứu giúp đồng bào vượt qua nạn đói khốc liệt.

Chiến tranh triền miên suốt 30 năm khiến sản xuất nông nghiệp kiệt quệ. Giai đoạn đầu khi hòa bình lập lại, vẫn còn đó những khó khăn về lương thực. Cơm trộn bo bo là ký ức khó quên của nhiều người Việt thế hệ trước.

Số liệu năm 1980, sản lượng lúa gạo bình quân đầu người nước ta chỉ khoảng 268kg, không đủ ăn, buộc Việt Nam phải nhập khẩu hơn 1,3 triệu tấn lương thực.

Đặc biệt năm 1987, thiên tai liên tiếp khiến sản lượng lúa giảm còn 17,5 triệu tấn khiến cả nước thiếu tới 1 triệu tấn lương thực nhưng ngoại tệ cạn kiệt nên chỉ nhập được 440.000 tấn.

80 năm cây lúa Việt: Từ nạn đói 1945 đến hạt gạo ngon nhất thế giới - 5

Bước ngoặt lịch sử đến từ Đổi Mới 1986, khi Đảng và Nhà nước chủ trương xóa bỏ cơ chế bao cấp. Đặc biệt, Nghị quyết 10 năm 1988 (còn gọi Khoán 10) đã “cởi trói” cho nông nghiệp bằng cách giao đất và quyền quyết định sản xuất cho hộ nông dân.

Chỉ trong hai năm 1988-1989, mỗi năm sản lượng lúa cả nước tăng thêm khoảng 2 triệu tấn so với năm trước.

Trước giai đoạn đổi mới, sản lượng lương thực bình quân chỉ 13-14 triệu tấn/năm, thì đến năm 1989 đã vọt lên hơn 21 triệu tấn.

Việt Nam nhanh chóng thoát khỏi khủng hoảng lương thực, chấm dứt cảnh phải ăn cơm độn kéo dài suốt nhiều thập kỷ.

Năm 1989, ngay khi vừa đủ ăn, nước ta xuất khẩu trở lại gần 1,37 triệu tấn gạo, thu về hơn 310 triệu USD.

Việc “vừa hết đói đã xuất ngay hơn triệu tấn gạo” chứng tỏ tiềm năng sản xuất rất lớn của nông nghiệp Việt Nam.

Từ cột mốc này, hạt gạo Việt bắt đầu dòng chảy mạnh mẽ ra thị trường quốc tế sau hàng chục năm gián đoạn vì chiến tranh và thiếu thốn.

Thành tựu ấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính sách của Nhà nước, có sự đóng góp to lớn của đội ngũ nhà khoa học, những người đã tạo nên các đột phá trong khoa học kỹ thuật nông nghiệp - nhân tố then chốt nâng cao năng suất và chất lượng hạt lúa.

80 năm cây lúa Việt: Từ nạn đói 1945 đến hạt gạo ngon nhất thế giới - 7

Năm 1971, giữa lúc sự nghiệp đang thăng tiến tại Viện Lúa quốc tế (IRRI) với mức lương hàng nghìn USD mỗi tháng và môi trường làm việc tân tiến, GS Võ Tòng Xuân lại khăn gói về Việt Nam với mức lương thấp hơn, chỉ vì muốn đào tạo đội ngũ kỹ sư nông nghiệp cho quê nhà, theo lời mời của Viện trưởng Viện Đại học Cần Thơ.

Ngay lập tức, GS Xuân cùng đồng nghiệp bắt tay vào cuộc chiến chống dịch rầy nâu, loại côn trùng nguy hiểm tàn phá mùa màng.

Ông đem nhiều giống lúa mới từ Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI) về ĐBSCL, nhưng ban đầu các giống IR26, IR30 vẫn bị rầy nâu hại. Không nản lòng, ông liên hệ IRRI xin tiếp giống kháng rầy.

Đến năm 1977, ông tìm ra giống IR36 kháng rầy nâu cực tốt và nhanh chóng nhân rộng chỉ sau một vụ lúa.

Để làm được điều đó, GS Võ Tòng Xuân đã đề xuất sáng kiến “đóng cửa trường học, mở cửa ruộng đồng”, ông tạm dừng giảng dạy hai tháng, đưa sinh viên nông nghiệp về các ổ dịch rầy giúp nông dân cứu lúa.

80 năm cây lúa Việt: Từ nạn đói 1945 đến hạt gạo ngon nhất thế giới - 9

Nhờ những nỗ lực ấy, đại dịch rầy nâu được dập tắt, các giống lúa cao sản chống chịu rầy như IR36 nhanh chóng phủ khắp đồng ruộng miền Tây, xóa tan nỗi lo mất mùa của nông dân.

Không dừng lại ở chống dịch, GS Xuân còn tiên phong thay đổi tập quán canh tác để tăng năng suất lúa. Ông vận động nông dân chuyển sang các giống lúa thấp cây, ngắn ngày, cho phép làm 2-3 vụ/năm thay vì 1 vụ truyền thống.

Nhờ thâm canh nhiều vụ, tổng sản lượng lúa trên một đơn vị diện tích tăng vọt. Ông phân tích: Thái Lan trồng lúa thơm 1-2 vụ/năm, mỗi vụ 4 tấn/ha, trong khi Việt Nam trồng 2-3 vụ lúa ngắn ngày, mỗi vụ 6 tấn/ha như vậy một năm có thể đạt 15 tấn/ha, cao gấp đôi Thái Lan.

Chính nhờ chiến lược tập trung vào giống ngắn ngày và thâm canh, Việt Nam đã nhanh chóng đuổi kịp và vượt lên về sản lượng.

Sản lượng lúa tăng từ 11,6 triệu tấn (1980) lên 19,2 triệu tấn (1990); đến năm 2000 đã vượt 32 triệu tấn và năm 2002 đạt 34,4 triệu tấn  gấp gần 3 lần sau hai thập kỷ.

Từ chỗ thiếu đói triền miên, Việt Nam không những tự túc lương thực mà còn đều đặn xuất khẩu 3-4 triệu tấn gạo/năm, vươn lên đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo cuối những năm 1990.

80 năm cây lúa Việt: Từ nạn đói 1945 đến hạt gạo ngon nhất thế giới - 11

Bước sang thập niên 2000, khi vấn đề số lượng đã cơ bản giải quyết, bài toán mới đặt ra là nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế trên cùng diện tích.

Lúc này, công nghệ lai tạo giống lúa tiến bộ vượt bậc, đặc biệt là lúa lai F1 cho năng suất cao hơn lúa thuần 20-30%.

Trung Quốc từ những năm 1970 đã đi đầu về lúa lai. Ở Việt Nam, các nhà khoa học cũng hăm hở bước vào “cuộc cách mạng lúa lai” nhằm tạo ra các giống lúa năng suất vượt trội, thích nghi điều kiện nước ta.

Nổi bật trong số đó là PGS.TS Nguyễn Thị Trâm (SN1944), nữ khoa học được mệnh danh “người mở đường cho lúa lai Việt Nam”.

Gắn bó trọn đời với cây lúa từ khi còn là sinh viên đến lúc trở thành giảng viên Đại học Nông nghiệp I  (Học viện Nông nghiệp Việt Nam ngày nay), bà Trâm đã miệt mài nghiên cứu lai tạo và cho ra đời nhiều dòng lúa lai mới mang ký hiệu TH và NN.

Tháng 6/2008 bà khiến giới khoa học nông nghiệp sửng sốt khi chuyển nhượng bản quyền giống lúa lai hai dòng TH3-3 cho một công ty giống cây trồng với giá 10 tỷ đồng (mức kỷ lục thời bấy giờ).

Đây là lần đầu tiên một giống lúa “Make in Vietnam” được định giá thương mại cao đến vậy, mở ra tiền lệ về việc triển khai kết quả nghiên cứu khoa học vào thực tiễn sản xuất một cách bài bản.

80 năm cây lúa Việt: Từ nạn đói 1945 đến hạt gạo ngon nhất thế giới - 13

Giống lúa TH3-3 được ví như “hoa hậu” trong các “đứa con” do PGS Nguyễn Thị Trâm lai tạo. Nó có nhiều ưu điểm quý: thời gian sinh trưởng ngắn (105-125 ngày/vụ), năng suất cao 7-8 tấn/ha, vượt trội so với giống thường, hạt gạo trắng, khi nấu thơm và dẻo cơm.

Cây lúa TH3-3 thuộc dạng bán lùn, thân cứng nên chống đổ ngã tốt, lại kháng được nhiều bệnh hại chính như đạo ôn, khô vằn, bạc lá….

Đặc biệt, do được sản xuất ngay trong nước nên giá hạt giống TH3-3 rẻ hơn giống nhập ngoại, phù hợp túi tiền nông dân.

Nhờ những ưu thế đó, TH3-3 nhanh chóng được nông dân đón nhận rộng rãi, chỉ thời gian ngắn đã chiếm tới 60% diện tích lúa lai cả nước.

Lần đầu tiên, một giống lúa lai do chính người Việt chọn tạo đã thống lĩnh đồng ruộng từ miền núi phía Bắc đến đồng bằng, Tây Nguyên, mang lại những mùa vàng bội thu cho hàng vạn hộ nông dân.

Sự kiện bán bản quyền giống lúa 10 tỷ đồng cũng chứng minh rằng nghiên cứu khoa học nông nghiệp có giá trị vật chất thực sự và có thể thu hút doanh nghiệp đầu tư. Đây là cú hích tinh thần lớn, khuyến khích các nhà khoa học nông nghiệp tiếp tục sáng tạo vì lợi ích của nông dân.

Sau TH3-3, PGS.TS Nguyễn Thị Trâm cùng cộng sự tiếp tục lai tạo hàng chục giống lúa lai khác. Có thể kể đến các giống TH3-4, TH3-5, TH3-7, TH6, hay dòng NN-9, NN-10, NN-23… mỗi giống đều có đặc tính riêng đáp ứng từng vùng sinh thái.

Ở tuổi 72, PGS khiến mọi người bất ngờ khi công bố 4 giống lúa thuần mới mang tên “Hương Cốm”. Đây là các giống lúa thơm ngắn ngày, cho năng suất cao hơn hẳn các giống lúa thơm truyền thống, hạt gạo thon dài, trong và bóng, cơm thơm dẻo đậm vị.

Đặc biệt, đúng như tên gọi “Hương Cốm”, các giống lúa này mang hương thơm độc đáo: có giống tỏa mùi lá dứa, có giống phảng phất mùi bỏng ngô. Hương Cốm 1 và Hương Cốm 4 nhanh chóng được chuyển giao cho doanh nghiệp để mở rộng sản xuất cuối năm 2016.

Thành công này cho thấy các nhà khoa học Việt không chỉ làm chủ công nghệ lai tạo lúa lai năng suất cao, mà còn có thể chọn tạo giống lúa thơm chất lượng cạnh tranh với gạo nhập khẩu.

80 năm cây lúa Việt: Từ nạn đói 1945 đến hạt gạo ngon nhất thế giới - 15

Khi điều kiện kinh tế phát triển, năng suất lúa vượt trội. Nhu cầu “ăn no, mặc ấm” dần chuyển dịch sang “ăn ngon, mặc đẹp”, KS Hồ Quang Cua (SN1953), “nhà khoa học nông dân” ở Sóc Trăng lại trăn trở về chất lượng hạt gạo Việt.

Ông tâm niệm: đã gọi là gạo thơm ngon thì “thơm phải thật thơm, ngon phải thật ngon”.

Từ đó, KS Cua nuôi một hoài bão táo bạo: lai tạo bằng được giống lúa thơm Việt Nam ngon nhất thế giới.

Năm 1991, trên cương vị Phó phòng Nông nghiệp huyện, ông tham gia nhóm nghiên cứu của Viện Lúa ĐBSCL và Đại học Cần Thơ đi sưu tập các giống lúa thơm cổ truyền của Việt Nam, Thái Lan, Đài Loan.

KS Cua phát hiện giống Khao Dawk Mali 105 (gạo Jasmine của Thái) nổi tiếng thơm ngon nhưng lại mẫn cảm với ánh sáng (chỉ trồng được một vụ mùa).

Trong khi đó, nông dân ta cần giống thơm ngắn ngày, trồng nhiều vụ.

“Hơn 20 năm trước, Thái Lan công bố lai tạo được 2 giống lúa thơm không cảm quang. Tôi tự hỏi tại sao họ làm được mà mình lại không?”, KS Cua từng kể về động lực khởi đầu.

Từ trăn trở đó, nhóm nghiên cứu lúa thơm Sóc Trăng được hình thành cuối thập niên 1990, do KS Hồ Quang Cua làm nhóm trưởng, với sự tham gia của các cộng sự.

Những năm 1996-1999, nhóm đã thu thập hàng ngàn mẫu lúa địa phương để sàng lọc.

Có lần, ông Cua tình cờ thấy một vài bụi lúa “đột biến” thân tím, hạt thon dài rất đẹp trên ruộng, mừng như bắt được vàng, mang về trồng thử và lai tạo.

Đến năm 2001, nhóm cho ra đời giống lúa thơm ST3 đầu tiên. Tiếp đó, hàng loạt giống ST5, ST8, ST10… ra đời giai đoạn 2003-2007.

80 năm cây lúa Việt: Từ nạn đói 1945 đến hạt gạo ngon nhất thế giới - 17

Các giống “ST” (viết tắt của Sóc Trăng) dần khẳng định được ưu thế: cây thấp, trồng được 2 vụ/năm, chịu mặn tốt (phù hợp vùng ven biển), cơm dẻo, thơm ngọt nên nông dân và thị trường đều ưa chuộng.

Đặc biệt, KS Cua chú trọng lai tạo kết hợp nhiều đặc tính ưu việt từ các giống bố mẹ. Chẳng hạn ST20, ST21… nổi tiếng thơm dẻo. Nhờ vậy, gạo Sóc Trăng dần có thương hiệu riêng, cạnh tranh với gạo thơm Thái Lan ngay tại thị trường nội địa.

Bước ngoặt đến vào năm 2008, nhóm bắt đầu lai tạo hai giống lúa mới là ST24 và ST25, được xem như thế hệ vượt trội kết tinh mọi ưu điểm của dòng ST trước đó.

Sau gần 8 năm nghiên cứu miệt mài, đến năm 2016 hai giống ST24, ST25 hoàn thiện. Nhưng thử thách lớn nhất với nhóm nghiên cứu lúc này không chỉ là kỹ thuật lai tạo, mà còn là làm sao khẳng định thương hiệu gạo Việt trên đấu trường quốc tế.

Cơ hội đến khi Hội nghị quốc tế lần 9 về Thương mại Gạo tổ chức tại Ma Cao (Trung Quốc) năm 2017 cũng là năm đầu tiên gạo Việt Nam tham gia cuộc thi “Gạo ngon nhất thế giới” do The Rice Trader tổ chức.

80 năm cây lúa Việt: Từ nạn đói 1945 đến hạt gạo ngon nhất thế giới - 19

Gạo ST24 của nhóm Hồ Quang Cua đã gây tiếng vang lớn: với hạt gạo dài, trắng trong, cơm dẻo, thơm hương lá dứa, lại là giống ngắn ngày năng suất cao. ST24 được ban giám khảo vinh danh vào Top 3 gạo ngon nhất thế giới 2017.

Ngay sau đó, ST24 còn đạt giải “Gạo thơm hữu cơ ngon nhất” tại Festival Lúa gạo Việt Nam lần III năm 2018.

Không ngủ quên trên chiến thắng, KS Hồ Quang Cua tiếp tục mang hai “át chủ bài” ST24 và ST25 dự thi tại Cuộc thi Gạo ngon nhất thế giới 2019 ở Manila (Philippines).

Kết quả, gạo ST25 của Việt Nam đã xuất sắc vượt qua gạo Thái Lan, đoạt giải Nhất cuộc thi Gạo ngon nhất thế giới 2019.

Đây là lần đầu tiên gạo Việt Nam đứng đầu bảng xếp hạng gạo ngon toàn cầu, tạo nên “cơn địa chấn” trong ngành lúa gạo.

Ban giám khảo gồm các đầu bếp quốc tế đã bị chinh phục bởi hạt gạo ST25 thon dài, óng ánh, cơm mềm ngọt và mùi thơm tự nhiên đặc trưng.

Họ đánh giá “gạo ST25 toàn diện cả hương lẫn vị, xứng đáng danh hiệu Ngon nhất thế giới”. Chiến thắng này đã mang lại niềm tự hào to lớn, khẳng định gạo Việt Nam hoàn toàn có thể sánh ngang, thậm chí vượt trội gạo Thái về chất lượng.

Sau vinh quang 2019, KS Cua vẫn âm thầm cải tiến không ngừng. Ông cho biết lai tạo giống lúa thơm là hành trình dài, đòi hỏi kiên trì “nghĩ khác, làm khác” suốt hàng chục năm.

Ngày 30/11/2023, tại Hội nghị Lúa gạo thế giới lần thứ 15 ở Cebu (Philippines), gạo Ông Cua ST25 một lần nữa được vinh danh “Gạo ngon nhất thế giới 2023”, lần thứ hai kể từ 2019. Sự lặp lại kỳ tích này đã củng cố vững chắc vị thế gạo thơm Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Nhìn lại, hành trình 40 năm lai tạo “hạt ngọc” của KS Cua chính là biểu tượng cho khát vọng nâng tầm gạo Việt. Từ số lượng sang chất lượng, từ “ăn no” đến “ngon nhất thế giới”.

80 năm cây lúa Việt: Từ nạn đói 1945 đến hạt gạo ngon nhất thế giới - 21

80 năm cây lúa Việt: Từ nạn đói 1945 đến hạt gạo ngon nhất thế giới - 23

Trải qua biết bao thăng trầm, ngày nay Việt Nam đã trở thành một trong những cường quốc về lúa gạo. Từ chỗ thiếu ăn, chúng ta giờ đây vừa đảm bảo an ninh lương thực cho gần 100 triệu dân, vừa xuất khẩu hàng triệu tấn gạo mỗi năm đi khắp thế giới.

Theo Bộ Nông nghiệp & Môi trường, năng suất lúa bình quân của Việt Nam hiện thuộc nhóm cao nhất thế giới, đã tăng từ 4,88 tấn/ha năm 2008 lên 6,07 tấn/ha năm 2023.

Nhờ năng suất tăng và diện tích gieo trồng duy trì ổn định (~7,2-7,5 triệu ha), sản lượng lúa cả nước liên tục đứng ở mức trên dưới 43 triệu tấn/năm (2022 đạt ~42,7 triệu tấn).

Gạo Việt Nam có mặt tại hơn 150 quốc gia và vùng lãnh thổ, trải khắp từ châu Á, châu Phi đến các thị trường khó tính như châu Âu, châu Mỹ.

Song song, khoa học công nghệ 4.0 đang được ứng dụng mạnh mẽ vào đồng ruộng. Những cánh đồng mẫu lớn liên kết với doanh nghiệp giúp cơ giới hóa và áp dụng đồng bộ quy trình canh tác tiên tiến.

Từ khâu làm đất, gieo cấy đến chăm sóc, thu hoạch, máy móc dần thay thế sức người. Hình ảnh quen thuộc hiện nay ở nhiều nơi là “ruộng lúa không dấu chân người”, nông dân chỉ đứng trên bờ điều khiển máy bay không người lái (drone) để rải phân, phun thuốc.

80 năm cây lúa Việt: Từ nạn đói 1945 đến hạt gạo ngon nhất thế giới - 25

Công nghệ drone giúp công việc đồng áng nhanh gấp nhiều lần, tiết kiệm chi phí và giải quyết tình trạng thiếu lao động nông thôn.

Hệ thống tưới tiêu thông minh, cảm biến IoT, phân bón thông minh, giống mới chịu hạn mặn… cũng đang được nghiên cứu ứng dụng để chuẩn bị cho một nền nông nghiệp hiện đại hóa.

Bức tranh “tam nông” (nông nghiệp, nông dân, nông thôn) Việt Nam đang khởi sắc theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, an toàn và bền vững.

Có thể nói, từ hạt gạo cứu đói năm xưa, giờ đây gạo Việt đã trở thành hạt gạo của hội nhập và thịnh vượng. Thành quả này là kết tinh mồ hôi công sức của biết bao thế hệ nông dân “một nắng hai sương” cùng trí tuệ, tâm huyết của các nhà khoa học và sự đúng đắn của chính sách nông nghiệp qua từng thời kỳ.

Vị thế của ngành lúa gạo hôm nay là thành quả của một quá trình nỗ lực liên tục qua nhiều thế hệ người Việt.

Nội dung: Thanh Bình, Minh Nhật

Thiết kế: Tuấn Nghĩa

20/08/2025 - 06:48

Nguồn: https://dantri.com.vn/khoa-hoc/80-nam-cay-lua-viet-tu-nan-doi-1945-den-hat-gao-ngon-nhat-the-gioi-20250816132009491.htm


Chủ đề: gạoLúagạo ST25

Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Người dân hân hoan chào đón đại lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh
Đội tuyển nữ Việt Nam thắng Thái Lan để giành HCĐ: Hải Yến, Huỳnh Như, Bích Thùy tỏa sáng
Dòng người đổ về Hà Nội, hòa mình vào không khí hào hùng trước thềm Quốc khánh
Gợi ý các vị trí xem diễu binh, diễu hành ngày Quốc khánh 2/9

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm