Trang chủKhoa học - Công nghệKhoa họcCác nhà nghiên cứu đề xuất những gì để “mở cửa” tương...

Các nhà nghiên cứu đề xuất những gì để “mở cửa” tương lai xanh?


TS. Hạ Quang Hưng – Đại học Fulbright Việt Nam: Công cụ quản lý bảo vệ môi trường hữu hiệu

b1.-anh-2.jpg
TS. Hạ Quang Hưng – Đại học Fulbright Việt Nam

Hiện nay, các quy chế về môi trường đang chưa có bộ dữ liệu chất lượng nước qua việc sử dụng dữ liệu vệ tinh, mặc dù Cục Quản lý tài nguyên nước của Bộ TN&MT đã có một số tiêu chí nhưng chỉ tiêu về phân tích về phú dưỡng là còn thiếu. Chỉ tiêu này giúp không chỉ thu thập thông tin từ trạm đo mặt đất về biến (gọi là hàm lượng nitơ và hàm lượng photpho), mà còn giúp định được chỉ số dinh dưỡng bao gồm cả hàm lượng diệp lục.

Nghiên cứu “Quản trị nước và chia sẻ dữ liệu liệu xuyên biên giới tại hạ lưu sông Mê Kông và nghiên cứu trường hợp của đập thủy điện Yali, Việt Nam” đã sử dụng nghiên cứu tình huống của việc ô nhiễm nguồn nước ở thủy điện Yali nhằm giải quyết các thách thức về nước, nông nghiệp, tác động của biển đổi khí hậu, năng lượng và cân bằng hệ sinh thái. Qua nghiên cứu, minh chứng cho việc, cần phải bổ sung thêm một số chỉ tiêu trong phân tích nước ngầm.

Trong nghiên cứu này của trường Đại học Fulbright Việt Nam, nhóm nghiên cứu đã nhấn mạnh được vai trò phân tích viễn thám, định lượng để đánh giá, định vị không gian nguy cơ tiềm ẩn nguồn gây ô nhiễm.

Đến thời điểm hiện tại, mạng lưới trạm quan trắc số liệu môi trường ở Việt Nam vẫn còn thiếu bởi đầu tư công nghệ quan trắc khá tốn kém, chưa kể đến chi phí bảo dưỡng. Vì vậy, nhóm nghiên cứu đề xuất tích hợp những công nghệ viễn thám và chọn một số biến làm định lượng từ viễn thám quang học thay vì dùng trạm đo mặt đất. Công nghệ viễn thám này giúp cho các huyện ở vùng sâu, vùng xa, cán bộ môi trường của địa phương, xã, huyện sẽ có thêm công cụ để giúp quản lý cả doanh nghiệp và nông dân trong việc bảo vệ môi trường hiệu quả hơn.

Đối với tiểu vùng sông Mê Kông bao gồm 2 nhóm chính là hạ nguồn và thượng nguồn. Thượng nguồn có Trung Quốc, Myanmar; hạ nguồn có Lào, Campuchia và Việt Nam. Những nước ở dưới hạ nguồn đa phần bị ảnh hưởng bởi các hoạt động của các nước trên thượng nguồn, tiềm ẩn tác động xấu tới môi trường nước trong lưu vực sông Mê Kông.

Từ công nghệ viễn thám quang sinh học, các nhà khoa học đã cùng nghiên cứu giải pháp xử lý vấn đề suy thoái tại lưu vực sông Mê Kông.

Tuy nhiên, điểm khó khi chia sẻ dữ liệu quan trắc tới các nước còn “vướng” nhiều vấn đề liên quan đến bảo mật dữ liệu quốc gia,… Theo đó, trong tình huống này, việc áp dụng sử dụng định lượng là một cách tiếp cận rất phổ biến mà các quốc gia phát triển đang thực hiện.

Như Mỹ và các nước châu Âu cũng đề áp dụng đối với những khu vực mà họ cảm thấy còn vướng mắc về mặt pháp lý, mặt tài chính để đầu tư cơ sở hạ tầng hay để quan sát,… nên việc sử dụng dữ liệu viễn thám sẽ đạt kết quả tốt nhất, phục vụ công tác quản lý, chia sẻ thông tin giữa các Quốc gia trong tiểu vùng sông Mekong. Ứng dụng này ghi nhận sai số khoảng 20 – 30%, tuy nhiên mức độ chính xác là tương đối chiếm khoảng 70% – 80%.

GS. Venkatesh Raghavan – Đại học Thủ đô Osaka: Sử dụng công nghệ giải quyết ô nhiễm môi trường

anh-2(1).jpg
GS. Venkatesh Raghavan – Đại học Thủ đô Osaka

Các đề tài về chất lượng môi trường đều được các nhà khoa học tại Việt Nam và Quốc tế chia sẻ trong các nghiên cứu, mang đến những kinh nghiệm khác nhau. Trong đó, có rất nhiều đề tài nghiên cứu có thể áp dụng vào thực tiễn như các đề tài tập trung vào phát triển công nghệ mới, nghiên cứu chia sẻ dữ liệu, xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo, bảo vệ môi trường,…

Trong nghiên cứu “Trích xuất tự động các đặc điểm tuyến tính từ mô hình độ cao số bằng cách sử dụng trích xuất cạnh và chuyển đổi Hough” của nhóm nghiên cứu Đại học Thủ đô Osaka đã hướng trọng tâm trong việc điều tra quá trình trích xuất các đường nét từ hình ảnh kỹ thuật số như hình ảnh vệ tinh và DEM, với các bước cơ bản được thực hiện trong quá trình xử lý bao gồm 3 giai đoạn: Phân định ranh giới các đặc điểm địa mạo tuyến tính, trích xuất các cạnh và trích xuất đường véc-tơ từ bản đồ cạnh hoặc bất kỳ hình ảnh raster nào.

Qua nghiên cứu, quy trình trích xuất đối tượng hình ảnh được xác thực với các bộ dữ liệu khác nhau và trong điều kiện địa lý đa dạng. Hơn nữa, việc tinh chỉnh các thuật toán sẽ tối ưu hoá việc lựa chọn tham số.

Đơn cử như đề tài nghiên cứu quản trị nước, chia sẻ dữ liệu, thông tin của các tiểu vùng sông Mê Kông và nghiên cứu trường hợp đập thủy điện Yali – Việt Nam. Nghiên cứu đã đưa ra một công cụ phổ biến giúp trao đổi, chia sẻ dữ liệu thông tin bằng viễn thám, định lượng không cần sử dụng những công nghệ đắt đỏ để đo đạc chất lượng môi trường.

Không những thế, nghiên cứu còn chỉ ra nguyên nhân ô nhiễm nguồn nước tại đập thủy điện Yali – Việt Nam, điều mà những nhà khoa học quốc tế chưa thể biết hoặc không nắm rõ. Đồng thời đưa ra những đề xuất phù hợp để giải quyết tình trạng ô nhiễm trên với cách tích hợp, sử dụng công cụ “Nguyên tắc trả tiền của người gây ô nhiễm (viết tắt là PPP)”.

Bằng cách sử dụng không gian, không khí, giám sát cảm biến, trạm đo lường mặt đất và lấy mẫu vật tại hiện trường để theo dõi các chất ô nhiễm, kết hợp với việc sử dụng mô hình quang học sinh học cho những trường hợp quan trắc môi trường; nghiên cứu đã khá thành công trong việc phát hiện ra các điểm ô nhiễm tại địa phương. Tuy nhiên, đề tài này cần cho thấy nhiều kết quả hơn trong việc áp dụng phương pháp trên trong quá trình thực hành nghiên cứu. Từ đó có thể tổng hợp cách thức và có thể áp dụng thực tiễn tại một số nước.

PGS.TS. Phạm Quý Nhân – Trường Đại học TN&MT Hà Nội: Nghiên cứu cấp nước cho vùng khan hiếm

b1.-anh-3.jpg
PGS.TS. Phạm Quý Nhân – Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội

Hiện nay, ở Việt Nam, nền kinh tế – xã hội đang phát triển trong bối cảnh biến đổi khí hậu gây nên những vấn đề về khan hiếm nước, ảnh hưởng lớn đến đời sống của nhân dân. Trong đó, tình trạng nước nhiễm mặn đang có chiều hướng gia tăng tại các vùng có nguồn nước hạn chế. Có thể kể đến những vùng khan hiếm nước như ở vùng sâu vùng xa, Đồng bằng Nam Bộ, dải ven biển miền Trung và miền núi phía Bắc.

Vì vậy, vấn đề đặt ra trong bối cảnh hiện nay đối với những vùng khan hiếm nước chính là lưu giữ và khai thác nước ngầm. Thủ tướng Chính phủ đã ủy quyền cho một chương trình tập trung vào điều tra và thăm dò các nguồn nước ngầm, nhằm đáp ứng nhu cầu về nước sinh hoạt ở những khu vực này.

Trên bình diện quốc tế và trong nước, một loạt giải pháp đã được đề xuất và thử nghiệm, tuy nhiên các giải pháp đều khá tốn kém, phức tạp về mặt kỹ thuật hoặc không phù hợp với phong tục địa phương, dẫn đến việc sử dụng tài nguyên không hiệu quả. Do đó, nghiên cứu “Sử dụng việc lưu trữ và phục hồi tầng ngậm nước như một giải pháp cấp nước bền vững cho các vùng khan hiếm nước” được đề xuất đề tài cấp Nhà nước mà nhóm nghiên cứu đang thực hiện sẽ giúp mở rộng phạm vi thực hiện.

Nước đối với những khu vực này là một vấn đề lớn cần được giải quyết. Một lít nước ở đây tương đương với một khối nước vào những tháng mùa khô ở những vùng này. Nhằm hướng đến các phương pháp tiếp cận phù hợp và bền vững để giảm thiểu hiện tượng xâm nhập mặn trong khai thác nước ngầm tại các vùng khan hiếm nước, phương pháp nghiên cứu đã thu thập dữ liệu và khảo sát bổ sung đánh giá hiện trạng cùng việc triển khai công nghệ lưu trữ và phục hồi tầng ngậm nước (ASR).

Theo nghiên cứu, trong những đụn cát vào mùa mưa, nguồn nước được lưu giữ nhiều, tuy nhiên đến mùa khô thì nguồn nước đó chảy đi hoặc bốc hơi mất. Rõ ràng sẽ rất lãng phí nếu không được sử dụng. Vì vậy, ý tưởng của nhóm nghiên cứu chính là thực hiện lưu giữ nguồn nước trong những lỗ khoan của tầng nước nằm sâu hơn mà đặc biệt là những vùng bị mặn. Nhóm nghiên cứu sẽ thực hiện trong 6 – 7 khối nước/giờ.

Khi đó, việc lưu giữ nguồn nước này vào mùa mưa sau đấy đến mùa khô khan hiếm nước thì lấy lên sử dụng là rất hữu ích. Nghiên cứu này hiện nay đang được thực hiện rất suôn sẻ từ năm 2021 và đề tài này kéo dài 30 tháng, còn hơn nửa năm nữa sẽ kết thúc. Nhóm đã thi công bãi thí nghiệm tiến hành phổ cập vào mùa mưa và hy vọng rằng nguồn nước sẽ được lấy vào mùa khô.

Từ đó, quá trình thực nghiệm, mô phỏng cho thấy hiệu quả của nó và hy vọng rằng sau khi nghiệm thu nghiên cứu sẽ có thể được phổ biến rộng rãi và áp dụng vào các nơi khác tại Việt Nam trong thời gian sắp tới.

TS. Đào Hoàng Tùng – Trường Đại học TN&MT Hà Nội: Mô hình mã nguồn mở tăng bồ lắng phục vụ trồng rừng ngập mặn

anh-4.jpg
TS. Đào Hoàng Tùng – Trường Đại học TN&MT Hà Nội

Bờ biển đồng bằng sông Cửu Long ngày càng bị xói lở và suy giảm rừng ngập mặn trên diện rộng. Vì vậy, các công trình bảo vệ bờ biển như hệ thống đê biển, tường chắn sóng, đập phá sóng và các kè mỏ hàn sẽ mang lại một sự đảm bảo nhất định cho đường bờ trong việc làm giảm chiều cao sóng cũng như việc tăng cường bùn cát cho một số khu vực nói riêng.

Tuy nhiên, việc sử dụng những công trình truyền thống như trên sẽ không hoàn toàn mang lại sự ổn định cho đường bờ, vì chúng sẽ làm mất cân bằng tự nhiên của đường bờ, từ đó dẫn đến sự suy giảm của hệ thống sinh vật và thực vật tại nơi có những công trình đó, tuỳ thuộc vào mức độ lớn hay nhỏ của công trình.

Trong những năm gần đây, sự chuyển giao công nghệ bảo vệ bờ biển cũng được thay đổi, ví dụ như sự chuyển đổi sử dụng các phương pháp “mềm” như trồng thêm rừng ngập mặn hoặc cải thiện đụn cát trong việc chống xói lở do bão, hay sử dụng phương pháp xây dựng công trình “mềm”, kết hợp cùng công trình cứng truyền thống để nâng cao khả năng bồi lắng bùn cát và phục hồi hệ sinh thái.

Trong đó, “hàng rào gỗ” (tường mềm) được coi là giải pháp tự nhiên, thân thiện với môi trường và được nhiều nước trên thế giới áp dụng thành công, bởi có kết cấu giúp cho dòng chảy đi qua và sử dụng cho một số dự án khôi phục rừng ngập mặn dọc bờ biển, đặc biệt tại các bờ biển khu vực đồng bằng sông Cửu Long, Sóc Trăng, Bạc LiêuTrà Vinh.

Thông thường, công trình xanh này thường được xây dựng phía trước vành đai rừng ngập mặn nhằm tạo môi trường sống động, bao gồm năng lượng sóng thấp và khả năng bồi lắng cao cho rừng ngập mặn non. Một trong những chức năng có giá trị nhất là giảm sóng do sự giảm đáng kể do lực cản của nó được tạo ra bởi mật độ và độ dày. Chức năng này cũng đã được một số nơi ở Việt Nam, Thái Lan, Indonesia nghiên cứu.

Tuy nhiên, nghiên cứu về sự gia tăng trầm tích ở phía trước và phía sau hàng rào đã bị bỏ qua do sự phức tạp của việc vận chuyển trầm tích, đặc biệt là đối với hàng rào thấm nước. Trong nghiên cứu “Khả năng giảm sóng và dòng chảy của hàng rào gỗ” của nhóm, sóng tần số thấp, được coi là đóng góp chính cho dòng chảy, tập trung vào việc đánh giá khả năng vận chuyển trầm tích qua hàng rào gỗ.

Nghiên cứu này áp dụng mô hình SWASH do Đại học Công nghệ Delft phát triển, thực hiện một số kịch bản sóng cho gió mùa Đông Nam và Đông Bắc được kế thừa từ nghiên cứu trước. Kết quả nghiên cứu cho thấy hiệu quả của hàng rào gỗ trên sóng tần số cao, cao hơn đáng kể so với sóng tần số thấp.

Hơn nữa, biên độ của sóng tần số thấp ở vị trí thượng nguồn và hạ lưu của hàng rào gỗ sẽ giúp ích nhiều cho sự vận chuyển trầm tích và dòng chảy do sóng gây ra.

TS. Trương Xuân Quang – Trường Đại học TN&MT Hà Nội: Tích hợp trí tuệ nhân tạo xử lý trượt lở đất

anh-5-2.jpg
TS. Trương Xuân Quang – Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội

Trong nghiên cứu về “Tích hợp trí tuệ nhân tạo và các công nghệ giám sát trái đất trong nghiên cứu tai biến, trượt lở đất ở vùng núi phía Bắc Việt Nam”, nhóm nghiên cứu đã quan sát trái đất kết hợp các thuật toán trí tuệ nhân tạo trong nghiên cứu trượt lở đất và đã mang lại kết quả tốt cho khu vực nghiên cứu trong nước và phía đối tác các nước quốc tế.

Về mặt mô hình, nghiên cứu đã giúp sức cho việc nâng cao độ chính xác của bản đồ phân vùng dự báo nguy cơ trượt lở. Trong đề tài, nhóm nghiên cứu đã phối hợp với phía đối tác nước Ý thử nghiệm nhiều mô hình khác nhau và đã lựa chọn được mô hình học, kết hợp và mô hình rừng ngẫu nhiên, cho thấy đây là phương pháp tốt nhất.

Để nâng cao độ chính xác của mô hình, dữ liệu kiểm kê trượt lở cũng được cập nhật thêm các điểm trượt lở mới, tập dữ liệu không trượt lở cũng quyết định sự chính xác của mô hình, chính vì thế mở rộng các điều kiện và xác định chính xác các vị trí không trượt lở là rất quan trọng. Hiện giờ phí Ý sử dụng độ dốc và tính kháng trượt để tìm các điểm không trượt lở, phía Việt Nam sử dụng độ dốc và đố rắn chắc của lớp đất đá để xây dựng tập dữ liệu không trượt lở.

Đối với khu vực Văn Yên và Mù Cang Chải có địa hình thung lung hẹp, quỹ đất trong xây dựng cơ sở hạ tầng là một vấn đề nóng, nên để xây dựng hạ tầng người dân thường phải khoét và đánh chân núi hoặc taluy, điều này tạo nên những độ dốc nhân tạo, điều đó ngoài gây ra khả năng trượt lở đất rất cao còn tạo nên sai số khi xây dựng các mô hình dựa trên mô hình số độ cao hoặc bản đồ địa hình vốn khó có thể cập nhật liên tục. Vì vậy, bản đồ phân vùng dự báo nguy cơ trượt lở có thể là một tài liệu tham khảo hữu ích cho địa phương trong quy hoạch và cấp phép việc mở rộng diện tích sử dụng vào chân taluy.

Ở những địa phương có tần suất trượt lở cao như Yên Bái thì chính quyền và người dân địa phương đang rất cần một công cụ thực sự để cảnh báo và dự báo tai biến trượt lở. Các công nghệ xây WebGIS và Geoportal được sử dụng trong hệ thống đều hoạt động tốt và đồng bộ, chính vì thế bản đồ cảnh báo nguy cơ trượt lở đất gần thời gian thực đã đáp ứng được khả năng dự báo gần thời gian thực và hơn thế nữa nó có thể dự báo trước đến 3 ngày dựa vào lượng mưa dự báo từ mô hình GFS.

Hệ thống đã vận hành và cho kết quả liên tục, tuy nhiên vẫn cần phải giám sát để kiếm chứng khả năng cảnh báo với những trận mưa lớn kéo dài trong tương lai và để đáp ứng được mục tiêu thu thập thông tin cho các cán bộ kỹ thuật và cộng đồng thì cần có những nỗ lực của các ban ngành tại địa phương hỗ trợ quảng bá ứng dụng đến người dân và các nghiên cứu sau này.

PGS.TS Phí Trường Thành – Trường Đại học TN&MT Hà Nội: Khoa học bảo vệ hệ sinh thái, tài nguyên thiên nhiên

anh-6-2.jpg
PGS.TS Phí Trường Thành – Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội

Với đề tài nghiên cứu “Tương quan định lượng của phân phối định hướng gãy và mối quan hệ với đặc điểm kiến trúc khu vực quần đảo Nam Du, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang, Việt Nam” cho thấy mối tương quan định lượng về phân bổ hướng đứt gãy của các điểm số đo tại 102 vị trí khảo sát thuộc 3 đảo: Hòn Lớn, Hòn Ngang và Hòn Mẫu trong quần đảo Nam Du.

Nghiên cứu thu được kết quả phân tích có giá trị tương quan nhỏ nhất giữa các điểm khảo sát như trên đảo Hòn Lớn là 0,71% và giá trị tương quan cao nhất là 0,98%. Đối với đảo Hòn Lớn và đảo Hòn Ngang là 0,60% và giữa đảo Hòn Ngang với đảo Hòn Mẫu là 0,67%.

Kết quả phân tích đã cho thấy mối tương quan định lượng phân bổ hướng đứt gãy giữa các điểm khảo sát trên đảo Hòn Lớn và giữa các đảo này phản ánh rõ ràng trường ứng suất kiến tạo, hệ thống đứt gãy được hình thành bởi các pha phá huỷ kiến tạo nén theo hướng cận kinh độ, kéo dài dưới kinh độ, nén theo hướng phụ vĩ độ đã gây biến dạng đá theo các điều kiện kiến tạo khu vực.

Từ nghiên cứu có thể giúp các nhà quản lý và các trung tâm nghiên cứu, đo đạc xây dựng được những phương án kịp thời nhằm tránh tình trạng sạt lở, gãy nứt đất đá cho các khu vực dễ tổn thương tại địa phương.

“Trích xuất tự động các đặc điểm tuyến tính từ biên đơn của mô hình độ cao số” và “Tổng quan không gian địa lý của môi trường thảm thực vật” được gợi ý bởi cộng đồng gắn nhãn địa danh khu vực Đông Bắc Thái Lan và Bắc Campuchia đã cho thấy kết quả thực tiễn cao. Việc giải thích kho lưu trữ và không gian của các tên địa danh này cung cấp thông tin quan trọng về môi trường thực vật của các cộng đồng.

Trong đó, đề tài “Nghiên cứu kết hợp ảnh Alos-2 Setinel-1 để phát hiện nhanh nạn phá rừng ở Việt Nam” đã giúp tập trung phát hiện các vết cắt rõ ràng và cháy rừng. Đồng thời trong các nghiên cứu của Hội thảo tại phiên làm việc thứ 3 lại tập trung vào sự đa dạng của các sinh vật sống trên trái đất; đặc điểm địa mạo; công viên địa chất, di sản địa chất và ý nghĩa văn hóa,…

Đặc biệt trong nghiên cứu về công nghệ viễn thám sử dụng nền tảng Google Earth để đánh giá diện tích cháy lúa trong vụ lúa đông xuân ở đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam đã áp dụng kỹ thuật viễn thám sử dụng nền tảng Google Earth Engine để xác định và lập bản đồ các khu vực đốt cây trồng. Ngoài ra còn có công cụ về quan trắc chuyển vị bề mặt sử dụng ảnh chuỗi thời gian Sentinel-1 và dữ liệu khảo sát san lấp mặt bằng nội thành Hà Nội, tác giả đã sử dụng phương pháp PSInSAR và ảnh chuỗi thời gian Sentinel-1A để xác định chuyển vị bề mặt trong nội thành Hà Nội.

Từ những phương pháp trong các nghiên cứu nêu trên có thể thấy rằng, việc áp dụng những kết quả đã thu được vào thực tiễn xã hội sẽ đạt hiệu quả tích cực và đáng kể trong việc bảo vệ môi trường, quy hoạch không gian, quản lý và sử dụng tài nguyên,…



Nguồn

Cùng chủ đề

Khắc phục tình trạng lãng phí nguồn lực nghiên cứu khoa học công nghệ tại Bắc Kạn

Những năm qua, hàng trăm tỷ đồng đã được tỉnh Bắc Kạn đầu tư triển khai nghiên cứu các đề tài khoa học công nghệ để ứng dụng vào thực tiễn, thúc đẩy sản xuất. Tuy nhiên, bên cạnh những nghiên cứu hiệu quả, không ít đề tài, dự án xa rời thực tiễn, không có tính ứng dụng dẫn tới lãng phí nguồn lực đầu tư, đây là vấn đề cần sớm khắc phục. Năm 2020,...

Giải mã âm thanh của lợn nhờ AI

DNVN - Một thuật toán trí tuệ nhân tạo (AI) mới đã được các nhà khoa học châu Âu phát triển nhằm giải mã tiếng kêu của lợn, hỗ trợ nông dân trong việc nâng cao chất lượng sống cho động vật. ...

Ban hành Chiến lược quốc gia về ứng dụng và phát triển công nghệ chuỗi khối

Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc đã ký Quyết định số 1236/QĐ-TTg ban hành Chiến lược quốc gia về ứng dụng và phát triển công nghệ chuỗi khối (blockchain) đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (Chiến lược). ...

Những ứng dụng ‘quen mặt, quen tay’ trên điện thoại của dân công sở

Chiếc điện thoại giờ đây đã trở thành vật bất ly thân của phần đông mọi người. Đặc biệt ở môi trường công sở, điện thoại không chỉ là công cụ liên lạc mà còn đóng vai trò trợ thủ đắc lực giúp dân văn phòng quản lý công việc hiệu quả hay giải khuây. Công việc: Gmail, Calendar Dù là điện thoại iOS hay Android, Gmail đã trở thành ứng dụng email phổ biến nhất hiện nay, giúp dễ...

Hàn Quốc ứng dụng AI trong cuộc sống hàng ngày

Tại Ga Đại học Hongik đông đúc của Seoul, du khách người Pháp Nagete Amandedano và chị gái cô đến quầy thông tin để hỏi đường bằng tiếng Pháp. Nhưng thay vì nói chuyện với nhân viên nhà ga, họ tương tác với màn hình OLED trong suốt. Ở...

Nổi bật

Mới nhất

Cùng tác giả

Bài đọc nhiều

Công cụ ghi chép tự động Whisper của OpenAI và mặt trái tiềm ẩn

DNVN - Khi AI ngày càng hiện diện sâu sắc trong cuộc sống hiện đại, công cụ Whisper từ OpenAI đã thu hút sự chú ý nhờ khả năng ghi chép tự động với độ chính xác gần như đạt mức “chuẩn mực con người”. ...

Indonesia chặn bán iPhone 16 vì thiếu đầu tư

Ngày 29/10, The Guardian dẫn nguồn tin từ Bộ Công nghiệp Indonesia cho biết, nước này đã cấm tiếp thị và bán mẫu iPhone 16 vì Apple không đáp ứng được các quy định về đầu tư tại...

Công cụ AI chuyển lời nói thành văn bản của OpenAI bị phát hiện bịa chuyện

Gã khổng lồ công nghệ OpenAI đã quảng bá Whisper, công cụ chuyển lời nói thành văn bản của mình như một AI có 'độ chính xác và độ bền tương tự con người'. Nhưng Whisper có một lỗi lớn: Tạo ra các đoạn văn bản và các câu hoàn toàn không có thật. ...

Google bổ sung 15 ngôn ngữ bản địa vào nền tảng dịch thuật

Hiện tại, Google có khả năng dịch hơn 94 ngôn ngữ trên toàn cầu sang 25 ngôn ngữ bản địa châu Phi. Google vừa công bố việc bổ sung 15 ngôn ngữ châu Phi vào nền tảng dịch thuật của mình, kết nối hơn...

Những hé lộ bất ngờ từ Di chỉ Vườn Chuối

Công viên di sản – tại sao không?Vườn Chuối đã được khai quật tính đến nay là 10 lần. Qua những lần khai quật các nhà nghiên cứu, khảo cổ học cũng đoán định ra được việc cư...

Cùng chuyên mục

Trao đổi kinh nghiệm đổi mới sáng tạo và hợp tác quốc tế tại chuỗi hội thảo chuyên đề

NDO - Nhằm thúc đẩy hợp tác về đổi mới sáng tạo giữa Việt Nam và Australia, Đại học Công nghệ Sydney tổ chức chuỗi hội thảo chuyên đề “Xây dựng tương lai: công nghệ, đổi mới sáng tạo và hợp tác” từ ngày 1-2/11 tại Hà Nội. Dự án được phát triển thông qua sự phối hợp giữa Đại học Công nghệ Sydney, Cục Phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo cùng Đại học...

Công cụ AI chuyển lời nói thành văn bản của OpenAI bị phát hiện bịa chuyện

Gã khổng lồ công nghệ OpenAI đã quảng bá Whisper, công cụ chuyển lời nói thành văn bản của mình như một AI có 'độ chính xác và độ bền tương tự con người'. Nhưng Whisper có một lỗi lớn: Tạo ra các đoạn văn bản và các câu hoàn toàn không có thật. ...

Tuyên Quang đẩy mạnh phát triển hạ tầng số, đáp ứng yêu cầu phát triển

NDO - Ngày 31/10, Ban Chỉ đạo chuyển đổi số tỉnh Tuyên Quang tổ chức Hội thảo tăng cường hạ tầng số và đổi mới sáng tạo, ứng dụng số để phát triển kinh tế số trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang.  Hội thảo được tổ chức nhằm đánh giá những kết quả đã đạt được và tìm hiểu nguyên nhân những khó khăn, hạn chế trong quá trình thực hiện chuyển đổi số hiện nay...

Nhân lực làm chủ công nghệ AI đang được các doanh nghiệp trọng dụng

DNVN - Ông Hoàng Nam Tiến - Phó chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học FPT cho rằng trong bối cảnh trí tuệ nhân tạo (AI) đang ảnh hưởng sâu sắc đến môi trường học tập và làm việc, người làm chủ được AI (trí tuệ nhân tạo) đang được trọng dụng, sẽ...

Apple ra mắt MacBook Pro mới với hiệu suất vượt trội

Điểm đáng chú ý ở thế hệ MacBook Pro mới là khả năng thực hiện các tác vụ Trí tuệ Nhân tạo (AI) một nhu cầu đang ngày càng gia tăng trong cộng đồng người dùng hiện nay. Ngày 30/10, Apple đã chính thức giới thiệu các mẫu MacBook Pro mới, được trang bị bộ vi xử lý mạnh mẽ M4 Pro và M4 Max, đáp ứng các công việc yêu cầu...

Mới nhất

Việt Nam – Cuba củng cố quan hệ hợp tác toàn diện

Ngày 31/10 tại Hà Nội, ông Vũ Hải Hà, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại, Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam - Cuba, Chủ tịch Nhóm Nghị sĩ hữu nghị Việt Nam - Cuba đã tiếp Đại sứ Cuba tại Việt Nam Orlando Nicolás Hernández Guillén. Tại cuộc tiếp, ông Vũ Hải Hà cho...

Tổng thống Venezuela chuyển thông điệp cảm ơn đến lãnh đạo Việt Nam

Tổng thống Maduro cho biết nhận lời mời của Tổng Bí thư Tô Lâm cũng như đáp lại tình cảm của các lãnh đạo chủ chốt Việt Nam, ông sẽ sớm thăm lại Việt Nam nhằm tiếp tục tăng cường quan hệ. Các cuộc tiếp xúc cấp cao gần đây giữa lãnh...

Tỷ phú Elon Musk phải ra tòa vì vụ treo giải 1 triệu USD cho cử tri

(Dân trí) - Các luật sư cho rằng việc tỷ phú Elon Musk treo giải thưởng cho cử tri ủng hộ cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump là một dạng "xổ số bất hợp pháp". Tỷ phú Elon Musk (Ảnh: Rex). Guardian đưa tin, một thẩm phán ở Philadelphia, bang Pennsylvania đã đề nghị tất cả các bên, trong đó có giám...

Đề xuất bỏ quy định trường thu tiền để mua BHYT cho học sinh

Đại biểu Trần Thị Thu Hằng (Đoàn ĐBQH tỉnh Đắk Nông) đề nghị nghiên cứu bỏ quy định nhà trường thu tiền bảo hiểm y tế của học sinh. Chiều nay 31.10, tiếp tục Kỳ họp thứ 8, Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm...

Thủ tướng tiếp lãnh đạo các doanh nghiệp, tổ chức tài chính hàng đầu Qatar

Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh quan hệ giữa Việt Nam-Qatar đang phát triển tốt đẹp, tin cậy lẫn nhau, là nền tảng vững chắc để doanh nghiệp hai nước mở rộng hợp tác. Theo đặc phái viên TTXVN, trong chương trình thăm chính thức Nhà nước Qatar, chiều 31/10, tại Thủ đô Doha, Thủ tướng Phạm Minh Chính...

Mới nhất