.jpg)
Trong bức tranh đa sắc màu của dân tộc Việt Nam, nơi 54 dân tộc anh em cùng chung sống, có những cộng đồng nhỏ bé, như những viên ngọc quý ẩn mình giữa núi rừng, đang lặng lẽ góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hóa dân tộc. Đó chính là các dân tộc thiểu số rất ít người - những dân tộc có dân số dưới 10.000 người, thậm chí chỉ vài trăm người.
Họ không chỉ là minh chứng cho sự đa dạng tộc người và văn hóa của đất nước, mà còn là những người giữ gìn những giá trị truyền thống cổ xưa, từ ngôn ngữ, trang phục, lễ hội đến lối sống hài hòa với thiên nhiên. Tuy nhiên, trong dòng chảy của thời đại, việc bảo tồn và phát triển văn hóa của họ đang đối mặt với vô vàn thách thức.
Những "hạt ngọc" ẩn mình giữa núi rừng

Hiện nay, trong số 53 dân tộc thiểu số của Việt Nam có 16 dân tộc thiểu số rất ít người (Si La, Ơ Đu, Brâu, Rơ Măm, Pu Péo, Cống, Mảng, Bố Y, Lô Lô, Cờ Lao, Ngái, Lự, Pà Thẻn, Chứt, La Ha, La Hủ), sinh sống rải rác tại các tỉnh, thành phố trên cả nước. Điểm chung của đồng bào các dân tộc thiểu số rất ít người là hầu hết họ cư trú ở những vùng đặc biệt khó khăn, "lõi nghèo" của cả nước.
Tuy nhiên, mỗi dân tộc là một thế giới văn hóa riêng, với ngôn ngữ, trang phục, lễ hội, phong tục, tri thức dân gian và nghề thủ công truyền thống độc đáo.
![]()
Ngày Tết là dịp để đồng bào dân tộc Cống diện những bộ trang phục truyền thống đẹp nhất. (Ảnh: Xuân Tư/TTXVN)
Việt Nam có 16 dân tộc thiểu số rất ít người (Si La, Ơ Đu, Brâu, Rơ Măm, Pu Péo, Cống, Mảng, Bố Y, Lô Lô, Cờ Lao, Ngái, Lự, Pà Thẻn, Chứt, La Ha, La Hủ), sinh sống rải rác tại các tỉnh, thành phố trên cả nước
Chẳng hạn, dân tộc Ơ Đu hiện chỉ có hơn 400 người, là một trong những cộng đồng nhỏ nhất, chủ yếu sinh sống ở Nghệ An. Dân tộc Ơ Đu còn có tên là Tày Hạt. Họ sống trong những ngôi nhà sàn đơn sơ bên dòng sông Nậm Nơn, nơi họ duy trì lối sống gắn bó với rừng núi.
Hiện nay đồng bào Ơ Ðu chỉ còn giữ được ý thức tự giác về tộc người, còn ngôn ngữ thì hầu như đã mất (chỉ còn một vài người biết tiếng mẹ đẻ). Ðồng bào sử dụng thông thạo tiếng Thái và tiếng Khơ Mú.
Phong tục, tập quán của người Ơ Đu phong phú và đặc sắc, trong đó tiêu biểu là phong tục cưới xin và lễ đón tiếng sấm đầu năm.

Người dân Ơ Đu tổ chức vòng xòe để vui chơi, nhảy múa trong lễ đón tiếng sấm đầu năm, thắt chặt tình đoàn kết cộng đồng. (Ảnh: Xuân Tiến/TTXVN)
Trong khi đó, dân tộc Brâu, có tên gọi khác là Brao, cũng có dân số chỉ hơn 500 người. Người Brâu tụ cư thành làng theo hình vành khuyên từ lâu đời, có hàng rào bao quanh. Làng người Brâu là nơi bảo lưu vốn văn hóa cổ truyền của dân tộc.
Trong sinh hoạt cộng đồng thường có những trò chơi mang tính trình diễn nghệ thuật dân gian như đi cà kheo, thả diều, đánh phết... Người lớn tuổi thường kể truyện cổ và dạy con cháu tập hát ru, hát mừng lứa đôi nên chồng vợ, cách chế tạo và sử dụng "táp đinh bổ" (klông pút)...
Trong sinh hoạt ca nhạc và lễ hội, cồng chiêng có vị trí quan trọng nổi bật; cồng chiêng có nhiều loại (coong, mam, tha, ngô...) với những thang âm khác nhau, trong đó, độc đáo nhất là chiêng tha. Một bộ chiêng tha chỉ có hai chiếc, được người Brâu đặt tên là “chuar” (chiêng vợ) và “jơliêng” (chiêng chồng). Đối với người Brâu, chiêng tha là báu vật, là chiêng lễ, là biểu tượng thiêng liêng của tổ tiên.
Dân tộc Rơ Măm đứng thứ ba trong số những dân tộc có dân số ít nhất ở Việt Nam (chỉ cao hơn dân tộc Brâu và Ơ Đu). Trong lịch sử, những năm đầu thế kỷ 20, dân số Rơ Măm còn tương đối đông, phân bố rải rác trong 12 làng xen lẫn với người Giarai ở tỉnh Kon Tum. Trải qua nhiều biến cố, nay chỉ còn một làng với dân số ít ỏi ở nơi tiếp giáp Việt Nam-Campuchia, thuộc huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum (nay là tỉnh Quảng Ngãi).

Già A Ren ném gạo vào con vật hiến sinh (trâu) với ngụ ý cho trâu ăn đồng thời mong con vật hiến sinh sẽ đem hết vận xui đi và mang lại may mắn cho gia đình, cộng đồng làng. (Ảnh: Cao Nguyên/TTXVN)

Rượu ghè, gà cúng Yàng và thần linh tại lễ Mở cửa kho lúa của người Rơ Măm. (Ảnh: Cao Nguyên/TTXVN)

Lễ Mở cửa kho lúa của người Rơ Măm. (Ảnh: Cao Nguyên/TTXVN)

Lễ Mở cửa kho lúa của người Rơ Măm. (Ảnh: Cao Nguyên/TTXVN)
Cùng với nhiều lễ hội như Lễ cưới, Lễ bỏ mả, Lễ mừng nhà rông mới..., các nghi lễ khác gắn liền với hoạt động sản xuất nông nghiệp vẫn được người Rơ Măm gìn giữ và duy trì, trong đó Lễ Mở cửa kho lúa là lớn nhất. Lễ Mở cửa kho lúa của đồng bào dân tộc Rơ Măm có nhiều giá trị văn hóa đặc sắc và mang tính nhân văn cao; thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên, thần linh và con người, đồng thời bày tỏ tri ân, cảm tạ của con người đối với vật hiến sinh và thần linh...
Ở vùng đầu nguồn sông Đà, dưới chân những dãy núi hùng vĩ của Tây Bắc, người Si La vẫn lặng lẽ gìn giữ trọn vẹn những nét văn hóa riêng có của mình. Dẫu chỉ có chưa đến 1.000 người, cộng đồng nhỏ bé ấy vẫn góp một gam màu quý giá vào bức tranh đa dạng của các dân tộc Việt Nam.
Văn hóa Si La là sự hòa quyện tinh tế giữa tín ngưỡng dân gian, nghệ thuật truyền thống, phong tục tập quán và đời sống lao động thường ngày - tất cả cùng tạo nên một sắc thái văn hóa độc đáo, đậm đà bản sắc vùng cao.
Có thể nói, văn hóa của các dân tộc thiểu số rất ít người là những “hạt ngọc thô” trong kho tàng di sản Việt Nam - giản dị, mộc mạc nhưng chứa đựng tinh thần, niềm tin và sức sống mãnh liệt qua bao thế hệ.
Những "bóng mây" che mờ văn hóa của các dân tộc rất ít người

Giữa những bản làng nép mình bên sườn núi, văn hóa của các dân tộc thiểu số rất ít người ở Việt Nam đang lặng lẽ đối mặt với những thử thách khắc nghiệt. Những cộng đồng nhỏ bé như Ơ Đu, Si La hay Brâu... đang đối mặt với nguy cơ mai một văn hóa. Hành trình bảo tồn văn hóa không chỉ là giữ gìn ngôn ngữ, lễ hội hay trang phục, mà còn là cuộc chiến chống lại những bóng mây vô hình đang đe dọa xóa nhòa bản sắc.
Một trong những biểu hiện rõ ràng nhất của sự mai một văn hóa là nguy cơ biến mất của ngôn ngữ. Với nhiều dân tộc thiểu số rất ít người như Si La, Pu Péo, Brâu, Ơ Đu, Rơ Măm, số người nói tiếng mẹ đẻ chỉ còn đếm trên đầu ngón tay.
Dưới áp lực của hiện đại hóa, văn hóa Si La đứng trước nguy cơ mai một. Tiếng Si La, không có chữ viết, ngày càng ít người sử dụng. Nhiều phong tục truyền thống dần bị lãng quên. Trong khi đó, dân tộc Ơ Đu cũng đang chứng kiến ngôn ngữ Môn-Khmer của mình lụi tàn.
Trong cộng đồng nhỏ bé của các dân tộc rất ít người, phần lớn lớp trẻ đã nói tiếng phổ thông thành thạo hơn tiếng mẹ đẻ, do quá trình học tập, giao tiếp và làm việc ở ngoài bản làng.

Không chỉ ngôn ngữ, mà trang phục truyền thống - thứ từng là niềm tự hào của biết bao thế hệ - cũng đang dần bị thay thế. Hiện nay, ở nhiều vùng, trang phục truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa của các dân tộc chỉ còn xuất hiện trong những dịp đặc biệt như lễ hội hay ngày Tết. Điều này khiến trang phục dân tộc dần trở nên xa lạ, chỉ còn được xem như một loại lễ phục thay vì là trang phục gắn bó với đời sống hằng ngày.
Nếu như trước đây, hầu hết các dân tộc thiểu số đều trồng bông, lanh, nuôi tằm lấy tơ để dệt vải và may trang phục, thì nay tỷ lệ các hộ gia đình còn duy trì nghề trồng dâu nuôi tằm, trồng bông, trồng lanh để dệt vải chiếm rất ít. Chính việc tạo ra trang phục truyền thống đã có nhiều biến đổi làm cho y phục không còn nguyên gốc, đặc biệt là các họa tiết, hoa văn trang trí không còn được độ tinh xảo.

Phụ nữ Lô Lô rất chăm chỉ thêu vá trang phục. (Ảnh: Trần Việt/TTXVN)

Phụ nữ Lô Lô rất chăm chỉ thêu vá trang phục. (Ảnh: Trần Việt/TTXVN)
Nói đến sự mai một của những bộ trang phục truyền thống dân tộc, Tiến sỹ Nguyễn Thị Ngân thuộc Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam từng đưa ra một con số giật mình: “Có tới 40/54 dân tộc ở Việt Nam hiện không còn mặc trang phục truyền thống đúng như những gì mà Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam đang lưu giữ. Thay vào đó, họ mặc trang phục có loại vải công nghiệp bằng sợi tổng hợp, sợi nylon, hoa văn giống hệt nhau, được bày bán tràn ngập trên thị trường."
Một số dân tộc, ngoại trừ người già mặc trang phục truyền thống, giới trẻ đều mặc áo sơmi, quần bò, quần âu. Những dân tộc có dân số dưới 1.000 người như Rơ Măm, Ơđu, Chứt… thì hầu như “trắng” những bộ trang phục truyền thống.
Không dừng lại ở đó, do kinh tế còn nhiều khó khăn, người dân phải chật vật mưu sinh dẫn đến việc lễ hội, phong tục truyền thống bị giản lược, đôi khi chỉ còn mang tính hình thức.

Trang phục của phụ nữ Lô Lô. (Ảnh: Trần Việt/TTXVN)
Nguy cơ mai một văn hóa của các dân tộc thiểu số rất ít người đặt ra yêu cầu cấp thiết phải bảo tồn, phục hồi và trao truyền văn hóa, không chỉ để giữ lại những giá trị đặc sắc đang dần mất đi, mà còn để gìn giữ sự đa dạng, phong phú trong bức tranh văn hóa Việt Nam.
Giữ gìn hồn cốt văn hóa dân tộc rất ít người: Từ chính sách đến hành động

Đảng, Nhà nước ta xác định văn hóa của đồng bào dân tộc là di sản quý báu, góp phần làm nên sự phong phú, đa dạng và thống nhất của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc. Việc giữ gìn bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc, đặc biệt là văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số là nhiệm vụ chính trị có ý nghĩa quan trọng.
Những năm qua, thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn 1 (2021-2025), đời sống của nhóm dân tộc thiểu số rất ít người và nhóm dân tộc thiểu số còn khó khăn đã được cải thiện rõ rệt.

Đời sống của nhóm dân tộc thiểu số rất ít người và nhóm dân tộc thiểu số còn khó khăn đã được cải thiện rõ rệt so với trước đây. (Nguồn: Vietnam+)
Dự án 6 “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch” và dự án 9 “Đầu tư phát triển nhóm dân tộc thiểu số rất ít người và nhóm dân tộc còn nhiều khó khăn” thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 đã giúp đồng bào thụ hưởng các dịch vụ xã hội, phát triển kinh tế, và khôi phục, bảo tồn nhiều phong tục, lễ hội, văn hóa truyền thống.
Bộ cũng ban hành quyết định liên quan tổ chức khôi phục, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của cộng đồng dân tộc thiểu số có dân số ít người Bố Y sinh sống trên địa bàn Hà Giang (nay là Tuyên Quang), Lào Cai và dân tộc Cờ Lao sinh sống trên địa bàn Hà Giang (nay là Tuyên Quang) nhằm cải thiện mức hưởng thụ văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Việc tổ chức khôi phục, bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc có dân số ít người Bố Y, Cờ Lao nhằm duy trì các loại hình văn hóa phi vật thể, phong tục, tập quán xã hội tốt đẹp của đồng bào; tăng cường và thúc đẩy sự đa dạng văn hóa, khơi dậy niềm tự hào, củng cố tinh thần đoàn kết xã hội; tạo cơ hội cho sự phát triển văn hóa-du lịch, ngăn chặn sự mất mát của những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng bào.
Là một trong những dân tộc rất ít người ở Việt Nam, người Ơ Đu sinh sống xen kẽ cùng người Thái và người Khơ Mú tại các xã thuộc huyện Tương Dương cũ, tỉnh Nghệ An. Trải qua quá trình cư trú lâu dài bên cạnh các cộng đồng đông dân hơn, văn hóa của người Ơ Đu đã chịu nhiều ảnh hưởng từ văn hóa Thái và Khơ Mú, khiến không ít giá trị truyền thống bị phai nhạt theo thời gian.
Những năm gần đây, đồng bào Ơ Đu ở Nghệ An - cũng như nhiều dân tộc thiểu số rất ít người khác - đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước. Hàng loạt chính sách về bảo tồn di sản văn hóa, hỗ trợ phát triển kinh tế, nâng cao đời sống tinh thần cho đồng bào Ơ Đu được ban hành và triển khai đồng bộ.
Công tác bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể của người Ơ Đu đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Nhiều giá trị văn hóa đặc sắc từng có nguy cơ thất truyền nay đã được phục hồi và lan tỏa trở lại, như các nghề thủ công truyền thống, kỹ thuật làm trang phục dân tộc, cùng những làn điệu dân ca, dân vũ, dân nhạc mang đậm dấu ấn văn hóa Ơ Đu.
Mới đây, nhằm bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc Ơ Đu trước nguy cơ mai một, mới đây Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam đã phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nghệ An tổ chức lớp tập huấn truyền dạy văn hóa phi vật thể về dân ca, dân vũ, dân nhạc của dân tộc Ơ Đu cho hơn 70 học viên, nghệ nhân dân tộc Ơ Đu đang sinh sống trên địa bàn xã Nga My.
Tham gia lớp tập huấn, các học viên được phổ biến về công tác bảo tồn văn hóa phi vật thể của các dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc Ơ Đu nói riêng của tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay; chủ trương, đường lối chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước liên quan đến công tác văn hóa dân tộc; công tác bảo tồn và phát huy giá trị dân ca, dân vũ, dân nhạc truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch...

Lễ vào nhà mới dân tộc Mảng. (Nguồn: TTXVN)
Việc tổ chức khôi phục, bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc thiểu số rất ít người góp phần phát huy hiệu quả nguồn lực đầu tư của nhà nước, xã hội và cộng đồng vào công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của cộng đồng dân tộc thiểu số rất ít người; cải thiện mức hưởng thụ văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Bên cạnh đó, việc tổ chức khôi phục, bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc thiểu số rất ít người còn góp phần thúc đẩy phát triển du lịch tại các địa phương.

Tái hiện điệu hát ru con trong cuộc sống của người dân tộc Lự. (Ảnh: Nguyễn Oanh/TTXVN)
Hằng năm, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng tổ chức các hoạt động chào mừng Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam từ Trung ương đến địa phương; khảo sát và mở các lớp truyền dạy văn hóa truyền thống phi vật thể, các nghề thủ công truyền thống của các dân tộc rất ít người, như Bố Y, Pu Péo, Ơ Đu, Brâu, Rơ Măm, Mảng, Cống, Lô Lô, Chứt, Si La… do chính các nghệ nhân truyền dạy cho thế hệ trẻ.
Các hoạt động này góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tôn vinh bản sắc văn hóa dân tộc, củng cố, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Theo Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Trịnh Thị Thủy, truyền thống của các dân tộc thiểu số rất ít người là di sản quý giá, đó không chỉ là tài sản của riêng một vùng đất, con người hay địa phương mà là tài sản vô giá của quốc gia.
Các giá trị văn hóa truyền thống đã và đang được Đảng, Nhà nước, cả hệ thống chính trị cùng các dân tộc thiểu số rất ít người chung tay xây dựng, củng cố. Việc giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc rất ít người là nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong xây dựng, phát triển đất nước./.

Tết "Lấp lỗ" của đồng bào dân tộc Chứt. (Nguồn: TTXVN)
Nguồn:https://mega.vietnamplus.vn/giu-hon-van-hoa-cac-dan-toc-thieu-so-rat-it-nguoi-6885.html






Bình luận (0)