
Vùng nguyên liệu lúa tập trung, quy mô lớn trên địa bàn TP Cần Thơ.
Yêu cầu từ thực tiễn
Liên kết vùng ĐBSCL thời gian qua nhìn từ thể chế, cơ chế, chính sách có những thuận lợi cơ bản. Các nghị quyết quan trọng như Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH; Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 về phát triển vùng ĐBSCL; Quy hoạch tích hợp vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050... đã tạo ra khung thể chế nền tảng, định hướng phát triển theo không gian vùng, tích hợp đa ngành thay cho cách tiếp cận phân mảnh theo địa giới hành chính trước đây. Đây là động lực lớn thúc đẩy các địa phương chuyển từ tư duy cạnh tranh sang hợp tác. Ngoài ra, Hội đồng điều phối vùng ĐBSCL và Tổ điều phối liên tỉnh được thành lập, bước đầu tạo cơ chế trao đổi thông tin, phối hợp trong một số chương trình.
Theo PGS.TS Phạm Thu Hương, Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại thương, Nghị quyết số 13-NQ/TW nhấn mạnh yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, tăng cường khả năng thích ứng với BĐKH và thúc đẩy liên kết vùng như một chiến lược. Định hướng này cũng hoàn toàn phù hợp với tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là phát triển dựa trên nội lực và liên kết vùng bền vững tạo nên sức mạnh tổng hợp quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cùng với đó, bối cảnh hiện nay cũng đặt ra nhiệm vụ đòi hỏi sự đồng bộ, hài hòa giữa các vùng kinh tế ở cả 4 trụ cột là hội nhập quốc tế; phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; phát triển kinh tế tư nhân; đổi mới thể chế.
Việc sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh mang lại một loạt ý nghĩa chiến lược đối với liên kết vùng tại ĐBSCL, không chỉ về mặt tổ chức bộ máy mà còn phát huy tiềm năng phát triển chung của toàn khu vực. Nhiều dự án then chốt như cao tốc trục ngang - dọc, cảng biển, logistics, hạ tầng thủy lợi liên vùng được đầu tư theo định hướng “vùng hóa” nhằm gia tăng tính liên thông trong phát triển kinh tế, thương mại theo chuỗi giá trị.
“Vùng ĐBSCL sau sáp nhập đã chuyển từ mô hình phát triển phân tán sang quy mô vùng hội tụ, tạo ra điều kiện để tăng cường sức cạnh tranh tổng thể, mở rộng không gian kinh tế và thúc đẩy liên kết đa trung tâm. Cấu trúc các tỉnh, thành vùng ĐBSCL sau sáp nhập tạo điều kiện thuận lợi cho quy hoạch tích hợp không gian kinh tế dựa trên ba trụ cột chính là nông nghiệp hiện đại, bền vững và thích ứng BĐKH; kinh tế biển - cửa ngõ giao thương quốc tế; công nghiệp chế biến sâu và dịch vụ logistics gắn với các trung tâm đô thị động lực. Bên cạnh đó, sự gia tăng quy mô diện tích của từng địa phương tạo dư địa lớn cho xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung quy mô lớn, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn…”, TS Trần Hoàng Hiểu, Trưởng ban Quản lý khoa học và Hợp tác quốc tế, Học viện Chính trị khu vực IV, chia sẻ.
Gắn kết hơn trong bối cảnh mới
Theo ông Phạm Đức Thuần, Phó Trưởng phòng Tổng hợp quy hoạch, Sở Tài chính TP Cần Thơ, về khả năng kết nối không gian, Cần Thơ phải thể hiện vai trò là “điểm tụ” của dòng chảy kinh tế và tự nhiên. Không chỉ dừng lại ở vị trí đầu mối giao thông chiến lược, Cần Thơ còn phải kiến tạo một không gian kinh tế mở. Nơi chuỗi cung ứng của toàn vùng được hoàn thiện bằng hạ tầng logistics và dịch vụ hiện đại, xóa bỏ sự chia cắt địa giới hành chính để tạo nên sự liền mạch trong luân chuyển nguồn lực. Ngoài ra, việc phát huy vai trò trung tâm chính là bệ phóng tạo ra lợi thế so sánh và động lực tăng trưởng bền vững. Cần Thơ không phát triển tách biệt mà cộng hưởng với các địa phương lân cận; sự vươn lên của thành phố trong khoa học công nghệ, y tế và giáo dục sẽ tạo ra hiệu ứng lan tỏa nâng cao năng lực cạnh tranh tổng thể, từ đó hiện thực hóa mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội hiệu quả và bền vững cho cả vùng.
TS Trần Hoàng Hiểu đề xuất cơ chế phối hợp vùng cần chuyển đổi theo hướng mới từ mô hình liên kết tự nguyện, lỏng lẻo sang liên kết theo cam kết ràng buộc về pháp lý và lợi ích kinh tế. Một cơ chế phân chia lợi ích hợp lý giữa các địa phương là điều kiện then chốt, bởi liên kết vùng chỉ bền vững khi mọi chủ thể đều có lợi ích trực tiếp và dài hạn. Đồng thời, cần khuyến khích các mô hình hợp tác công - tư (PPP) trong phát triển hạ tầng liên vùng như giao thông, logistics, năng lượng và thủy lợi. Nhà nước đóng vai trò “kiến tạo - dẫn dắt”, tạo đòn bẩy thu hút nguồn lực xã hội hóa và vốn quốc tế cho các dự án có tác động lan tỏa toàn vùng.
Nhiều ý kiến cho rằng, chính sách thúc đẩy liên kết vùng ĐBSCL cần hướng tới xây dựng các cụm ngành kinh tế liên tỉnh dựa trên lợi thế so sánh về sinh thái và tài nguyên đặc thù. Trọng tâm là phát triển nông nghiệp sinh thái công nghệ cao gắn với chế biến sâu; hệ thống logistics thủy - bộ hiện đại; công nghiệp năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời, sinh khối); kinh tế thủy sản bền vững và kinh tế du lịch đặc thù sông - biển - văn hóa. Để làm được điều đó, cần chính sách ưu tiên đặc biệt cho doanh nghiệp dẫn dắt trong các chuỗi giá trị chiến lược của vùng, hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo liên vùng, thúc đẩy chuyển đổi số trong quản trị, sản xuất và thương mại. Bên cạnh đó, một môi trường pháp lý minh bạch, nhất quán, có tính dự báo cao sẽ là lực hấp dẫn quan trọng với nhà đầu tư, đồng thời giảm thiểu tình trạng cạnh tranh thu hút đầu tư bằng ưu đãi tràn lan giữa các địa phương, vốn gây phân mảnh trong phát triển vùng nhiều năm qua.
Bài, ảnh: MỸ THANH
Nguồn: https://baocantho.com.vn/lien-ket-noi-vung-thuc-day-tang-truong-kinh-te-dbscl-a195232.html










Bình luận (0)