KẾT NỐI KH-CN VỚI ĐỜI SỐNG VÀ DOANH NGHIỆP
Tôi hết sức đồng tình với tinh thần trong Dự thảo Văn kiện: "Phát triển khoa học - công nghệ (KH-CN), đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực trung tâm của mô hình tăng trưởng mới; là nhân tố quyết định năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế". Điều đáng trân trọng là trong dự thảo lần này, tư duy phát triển KH-CN không chỉ dừng ở "trụ cột phát triển", mà đã được nâng tầm thành "đột phá chiến lược", song hành cùng hoàn thiện thể chế và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Đại hội XIV đã đặt ra 4 trọng tâm chuyển đổi: chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực. Đó là sự cụ thể hóa sáng tạo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII, phản ánh tầm nhìn phát triển đất nước trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự hội nhập sâu rộng của Việt Nam.
Các sản phẩm nghiên cứu tại vườn ươm doanh nghiệp công nghệ cao trong Khu công nghệ cao TP.HCM
ẢNH: SỸ ĐÔNG
Tuy nhiên, trên cơ sở trải nghiệm thực tiễn trong hệ thống y tế và quá trình nghiên cứu, tôi cho rằng để biến tư duy đó thành sức mạnh thực chất, chúng ta cần có cách tiếp cận mới - tích hợp hơn, dám thử nghiệm hơn và nhân văn hơn - nhằm khơi dậy tối đa năng lực sáng tạo của người Việt Nam trong mọi lĩnh vực.
Trong nhiều thập niên, chúng ta đã xem KH-CN là động lực phát triển. Nhưng bước vào giai đoạn tới, tôi cho rằng KH-CN cần được coi là "năng lượng lõi", là "hạ tầng tri thức" của quốc gia, tương tự như điện và giao thông trong thế kỷ 20. Tôi kiến nghị Văn kiện bổ sung vào đoạn 6, phần VII về Đột phá phát triển KH-CN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia: "Xem tri thức và dữ liệu là tài sản quốc gia; KH-CN là năng lượng lõi, đổi mới sáng tạo là phương thức phát triển mới". Đó là nền tảng để khẳng định khoa học không còn là công cụ phụ trợ, mà là trung tâm của năng lực cạnh tranh quốc gia.
Một thách thức lớn hiện nay là khoảng cách giữa nghiên cứu hàn lâm và ứng dụng thực tiễn. Tôi kiến nghị Văn kiện nhấn mạnh hơn nữa tại đoạn 6, phần VII việc xây dựng cơ chế cầu nối tri thức - thị trường, nhằm tạo điều kiện hình thành những sáng kiến chuyển đổi tri thức thành sản phẩm. Chẳng hạn, Trung tâm dịch vụ chuyển giao công nghệ quốc gia, giúp doanh nghiệp tìm kiếm, mua, hoặc đặt hàng kết quả nghiên cứu trong nước; hoặc các khu công nghệ - y sinh ứng dụng, nơi viện nghiên cứu, bệnh viện, start-up có thể cùng thử nghiệm, sản xuất mẫu và thương mại hóa sản phẩm. Đồng thời hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển KH-CN phù hợp với nguyên tắc thị trường, chuẩn mực và thông lệ quốc tế, tháo gỡ dứt điểm các rào cản trong đầu tư và tự chủ nghiên cứu. KH-CN chỉ thực sự là động lực phát triển khi được gắn chặt với đời sống nhân dân và hiệu quả của doanh nghiệp.
Ngoài ra, kiến nghị bổ sung định hướng "xây dựng nền kinh tế dữ liệu và tri thức số" tại đoạn 3, phần VII, làm cơ sở để đưa vào nội dung cụ thể trong Chương trình Mục tiêu quốc gia 2026 - 2035, với lộ trình rõ ràng về hạ tầng, hành lang pháp lý và đào tạo nhân lực.
Tôi cho rằng, chuyển đổi số không thể chỉ là mua phần mềm hay triển khai hệ thống CNTT. Vấn đề cốt lõi là chuyển đổi tư duy lãnh đạo, cách ra quyết định và văn hóa tổ chức. Để chuyển đổi số thực sự thành công, tôi xin kiến nghị bổ sung vào đoạn 5 phần VII việc xây dựng "Văn hóa số quốc gia", trong đó nhấn mạnh 3 giá trị: minh bạch - chia sẻ - học hỏi. Chúng ta cần coi dữ liệu và tri thức là "tài sản công chiến lược", giống như đất đai hay ngân sách, phải được quản lý thống nhất và sử dụng vì lợi ích toàn dân, dựa trên các giá trị văn hóa số, thể hiện ở cách ra quyết định, quản trị dữ liệu, tương tác giữa các bên và xây dựng niềm tin số. Nếu không có văn hóa số, các dự án công nghệ dù hiện đại cũng dễ trở nên phân mảnh, thiếu chia sẻ, thiếu tính kế thừa và không tạo được giá trị lâu dài.
Dự thảo Báo cáo chính trị đã xác lập "4 chuyển đổi" làm định hướng phát triển, trong đó chuyển đổi số là động lực chính. Tôi đề xuất cần bổ sung vào đoạn 5 phần VII nội dung về sự gắn kết giữa chuyển đổi số và chuyển đổi xanh, từ đó tạo cơ sở để có thể xây dựng cơ chế khuyến khích doanh nghiệp công nghệ tham gia phát triển năng lượng sạch, quản lý phát thải bằng dữ liệu số. Đồng thời, thúc đẩy nghiên cứu công nghệ y tế xanh, bệnh viện thông minh, quản lý sức khỏe từ xa, vừa phục vụ dân sinh, vừa góp phần giảm phát thải và tiêu hao năng lượng. Có thể khuyến nghị việc đưa tiêu chí "hiệu quả số - hiệu quả xanh" vào tiêu chí đánh giá các dự án đầu tư công. Như vậy, chuyển đổi số không chỉ là công cụ quản lý, mà là phương thức phát triển bền vững.
XÂY DỰNG CƠ CHẾ "TÀI NĂNG - DỮ LIỆU - THỬ NGHIỆM"
Hiện nhiều nhà khoa học trẻ Việt Nam có năng lực và khát vọng, nhưng thiếu cơ hội và không gian để thử nghiệm, để được sai và được làm lại. Vì vậy, nên đề xuất bổ sung tại đoạn 7 mục VII cơ chế bảo vệ và khuyến khích cán bộ trẻ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung, đồng thời xây dựng "Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trẻ" gắn với các đại học, bệnh viện và viện nghiên cứu. Đây là cơ sở để có thể trao quyền cho nhà khoa học trẻ có cơ hội làm chủ nhiệm đề tài độc lập cấp bộ, cấp quốc gia nếu đủ năng lực, thay vì bắt buộc qua nhiều tầng xét duyệt hình thức, cũng như tạo được cơ chế đánh giá kết quả nghiên cứu theo giá trị ứng dụng, không chỉ theo số lượng bài báo.
Cần cơ chế cho nhà khoa học trẻ có cơ hội và không gian để thử nghiệm và sáng tạo
ẢNH: NGỌC THẮNG
Thực tiễn cho thấy, nhiều nghiên cứu trong nước chưa thể thương mại hóa hoặc ứng dụng rộng rãi, phần lớn vì thiếu dữ liệu, thiếu môi trường thử nghiệm linh hoạt, và thiếu cơ chế khuyến khích nhân tài. Do đó, tôi đề xuất bổ sung 2 nhóm giải pháp cụ thể vào đoạn 8, phần VII:
Một là, hình thành Cơ sở dữ liệu quốc gia mở về KH-CN, sáng chế và công bố, cho phép khai thác có kiểm soát phục vụ nghiên cứu. Đây sẽ là nền tảng cho phát triển các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo (AI), máy học, y học chính xác hay kinh tế số.
Hai là, thành lập quỹ phát triển tài năng trẻ KH-CN quốc gia, nhằm hỗ trợ nhà khoa học trẻ có dự án tiềm năng, được quyền sở hữu kết quả nghiên cứu, tiếp cận vốn đầu tư mạo hiểm và công bố quốc tế. Đồng thời, cần quan tâm đầu tư hạ tầng công nghệ quốc gia, xây dựng tiêu chuẩn và quy chuẩn phù hợp quốc tế, để các nghiên cứu trong nước có thể liên thông và hội nhập vào mạng lưới khoa học khu vực và thế giới.
Khi nhà nước tạo ra không gian thử nghiệm, doanh nghiệp và giới nghiên cứu sẽ mạnh dạn sáng tạo, dám chịu trách nhiệm, đó là nền tảng cho một hệ sinh thái đổi mới năng động.
Thế hệ chúng tôi - những trí thức trẻ sinh ra trong thời kỳ đổi mới, trưởng thành trong thời kỳ hội nhập và đang sống trong thời kỳ số hóa - mang trong mình niềm tin mạnh mẽ rằng tri thức Việt Nam hoàn toàn có thể chinh phục tri thức thế giới. Đại hội XIV của Đảng là thời điểm lịch sử quan trọng để chúng ta chuyển từ "động lực" sang "nền tảng chủ đạo" của KH-CN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Tôi mong rằng trong Văn kiện chính thức, Đảng ta sẽ tiếp tục khẳng định rõ hơn tầm nhìn "Xây dựng Việt Nam trở thành quốc gia đổi mới sáng tạo, có nền kinh tế dựa trên tri thức, dữ liệu và giá trị con người".
Nguồn: https://thanhnien.vn/niem-tin-gui-dang-dua-kh-cn-thanh-nang-luong-loi-phat-trien-quoc-gia-185251107160811975.htm






Bình luận (0)