Gắn kết hoạt động giám sát với hoàn thiện chính sách, pháp luật
Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (sửa đổi) gồm 5 chương, 45 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/3/2026.
Luật quy định về hoạt động giám sát của Quốc hội, HĐND; quyền và trách nhiệm của chủ thể giám sát, cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến hoạt động giám sát; việc bảo đảm hoạt động giám sát.
Theo quy định của Luật, giám sát của Quốc hội, HĐND là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua việc chủ thể giám sát của Quốc hội, HĐND theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý, góp phần hoàn thiện chính sách, pháp luật, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, địa phương, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
Chủ thể giám sát của Quốc hội bao gồm Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội.
Chủ thể giám sát của HĐND bao gồm HĐND, Thường trực HĐND, Ban của HĐND, Tổ đại biểu HĐND, đại biểu HĐND.
Luật quy định rõ 6 nguyên tắc hoạt động giám sát gồm: bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng Cộng sản Việt Nam; tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm khách quan, công khai, minh bạch, hiệu quả; giám sát toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; bảo đảm gắn kết giữa hoạt động giám sát với việc hoàn thiện chính sách, pháp luật, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, địa phương; không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát.
Theo quy định tại Luật, Đoàn đại biểu Quốc hội có các thẩm quyền: giám sát hoạt động của UBND, các cơ quan thuộc UBND, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự và cơ quan khác ở địa phương trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Đồng thời, giúp Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thực hiện giám sát khi được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao; tham gia hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, HĐND cấp tỉnh ở địa phương khi có yêu cầu, đề nghị.
Tổ đại biểu HĐND giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương khi được HĐND hoặc Thường trực HĐND cùng cấp giao; báo cáo kết quả giám sát để HĐND, Thường trực HĐND xem xét, quyết định.
Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (sửa đổi) cũng nêu rõ, Nghị quyết giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, HĐND có giá trị pháp lý bắt buộc thực hiện.
Kết luận, kiến nghị giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Thường trực HĐND, Ban của HĐND và đại biểu HĐND phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan thực hiện nghiêm chỉnh.
Trường hợp không đồng ý với kết luận, kiến nghị giám sát, cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát đề nghị chủ thể giám sát xem xét lại kết luận, kiến nghị giám sát liên quan đến hoạt động của mình.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị, chủ thể giám sát có trách nhiệm xem xét và trả lời; trường hợp bất khả kháng hoặc có nhiều nội dung phức tạp thì thời hạn có thể kéo dài hơn nhưng không quá 30 ngày.
Trường hợp không tán thành với kết quả trả lời của chủ thể giám sát thì cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát tự mình hoặc báo cáo với người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền để đề nghị Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, HĐND xem xét kết luận, kiến nghị giám sát đó.
Tổ đại biểu HĐND không thực hiện giám sát độc lập
Trước đó, Quốc hội đã nghe Chủ nhiệm Ủy ban Dân nguyện và Giám sát Dương Thanh Bình trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu chỉnh lý dự án Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (sửa đổi).
Về thẩm quyền và hoạt động giám sát của Đoàn ĐBQH (các điều 22, 23 và 24), có ý kiến đề nghị quy định cụ thể hơn về “các cơ quan khác ở địa phương” tại khoản 1 Điều 22 để thống nhất trong thực hiện.
Chủ nhiệm Ủy ban Dân nguyện và Giám sát Dương Thanh Bình cho biết, đối với các chủ thể giám sát tại địa phương như Đoàn ĐBQH, HĐND, Thường trực HĐND, Ban của HĐND, thì dự thảo Luật quy định thẩm quyền giám sát và liệt kê một số cơ quan là chủ thể chịu sự giám sát như UBND, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan thi hành án dân sự (là các cơ quan có báo cáo công tác hằng năm trước HĐND) và quy định khái quát các cơ quan khác ở địa phương để bảo đảm tính bao quát và thống nhất với quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
Các cơ quan khác ở địa phương tùy từng chủ thể giám sát có thể bao gồm cơ quan chuyên môn của UBND, tổ chức hành chính khác thuộc UBND, đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc UBND, các tổ chức thuộc cơ quan trung ương được tổ chức theo ngành dọc đặt tại địa phương (như Công an, thuế…) và tùy từng địa phương, từng cấp có thể có những cơ quan khác nhau.
Tuy nhiên, hiện nay một số cơ quan vẫn đang trong quá trình sắp xếp, kiện toàn nên nếu quy định cụ thể ngay trong Luật sẽ không bảo đảm tính ổn định.
Vì vậy, tiếp thu ý kiến này, để bảo đảm khả thi, thống nhất thực hiện trên thực tiễn, khoản 3 Điều 44 dự thảo Luật đã bổ sung quy định giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định chi tiết về “cơ quan khác ở địa phương” tại các điều 22, 27, 30 và 33 của Luật này.
Về thẩm quyền giám sát của Tổ đại biểu HĐND (Điều 37), Chủ nhiệm Ủy ban Dân nguyện và Giám sát nêu rõ, với quy định tại Luật, Tổ đại biểu HĐND chỉ thực hiện hoạt động giám sát khi được HĐND, Thường trực HĐND giao; không phải là thẩm quyền giám sát độc lập của Tổ đại biểu HĐND, nên không dẫn tới mâu thuẫn với Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
Mặt khác, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 chỉ quy định về cơ cấu tổ chức, thẩm quyền thành lập Tổ đại biểu HĐND mà không quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Tổ đại biểu HĐND. Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm cụ thể của Tổ đại biểu HĐND hiện nay đang được quy định cụ thể tại một số văn bản dưới luật.
Do đó, việc dự thảo Luật quy định về trách nhiệm của Tổ đại biểu HĐND thực hiện giám sát khi được HĐND, Thường trực HĐND giao không dẫn tới phải sửa đổi Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
Nguồn: https://daibieunhandan.vn/quoc-hoi-thong-qua-luat-hoat-dong-giam-sat-cua-quoc-hoi-va-hoi-dong-nhan-dan-sua-doi-10399896.html










Bình luận (0)