Mỗi người sinh ra và lớn lên trong một môi trường văn hóa nhất định. Khi đột nhiên sống một thời gian dài trong môi trường văn hóa khác, thế nào người ta cũng bị choáng váng, bị “cú sốc về văn hóa” (culture shock).
Trước khi Thế chiến II bùng nổ, giới văn học nói chung chống khuynh hướng Quốc xã. Thời hậu chiến đã đem lại nhiều đề tài mới, nhưng mãi lâu về sau, nhiều tài năng mới được khẳng định.
Đầu thế kỷ XIX, văn học Đan Mạch chuyển hẳn sang chủ nghĩa lãng mạn bởi trận thủy chiến năm 1801 trong cuộc chiến với Anh làm tinh thần dân tộc bùng lên và một triết gia trẻ du nhập chủ nghĩa lãng mạn Đức vào Đan Mạch.
Cảnh sắc Đan Mạch hài hòa giữa thiên nhiên và con người. Thủ đô Copenhagen là hòn ngọc trên đảo Seeland. Copenhagen có lẽ là một thành phố vào loại thoải mái nhất châu Âu.
Nước Đan Mạch ở tít phương trời Bắc Âu có thể được gọi là đất nước kỳ diệu hoặc đất nước “nhỏ mà to lớn”. Nói theo kiểu Việt Nam, có nghĩa là đất nước “bé hạt tiêu”.
Trong số đại diện tài ba của thời kỳ này phải kể đến Nakagami Kenji và Matsumoto Seicho - một nhà văn sinh ra sau chiến tranh, và người kia thì sau chiến tranh mới bắt đầu viết văn.
Một số nhà văn theo “trào lưu văn học vô sản” hoạt động chính trị, đa số nhà văn viết tuyên truyền. Một số viết những tác phẩm đề cao “sứ mạng” Nhật Bản, ít giá trị nghệ thuật.
Đến cuối thời Minh Trị, đặc biệt trong thập kỷ 1905-1915, nhiều nhà văn lớn xuất hiện. Số nhà văn ưu tú của thập kỷ đặc biệt này vượt xa số nhà văn lớn từ những năm 20 đến hết Thế chiến II.