Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Trung cấp - “điểm nghẽn” khiến người học thiệt thòi khi ra thế giới?

(Dân trí) - Trong khi khung trình độ quốc tế (ISCED) không có khái niệm “trung cấp”, hệ thống giáo dục Việt Nam vẫn duy trì như một bậc đào tạo chính thức.

Báo Dân tríBáo Dân trí05/10/2025

* Bài viết dưới đây là những chia sẻ và góc nhìn của TS Hoàng Ngọc Vinh, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp, Bộ GD&ĐT.

Việc này không chỉ gây khó khi xác lập chuẩn đầu ra, công nhận văn bằng, mà còn khiến người học chịu thiệt thòi khi bước ra thế giới. Tôi cho rằng, đã đến lúc phải dứt khoát loại bỏ bậc học này khỏi luật.

Trong nhiều năm qua, hệ thống giáo dục - đào tạo Việt Nam liên tục điều chỉnh để theo kịp xu thế quốc tế. Tuy nhiên, một trong những điểm nghẽn gây nhiều tranh cãi chính là việc duy trì tên gọi “trung cấp” như một trình độ đào tạo chính thức.

Nhìn qua tưởng chừng vô hại, nhưng thực chất, việc giữ lại danh xưng này dường như đang phi lý về mặt khoa học giáo dục, phần nào cản trở hội nhập, đồng thời khó khăn cho việc xác định chuẩn đầu ra, xây dựng chương trình và công nhận văn bằng.

Trung cấp - “điểm nghẽn” khiến người học thiệt thòi khi ra thế giới? - 1

Các trường tư vấn ngành nghề cho phụ huynh, học sinh (Ảnh: Huyên Nguyễn).

Trước hết, “trung cấp” không tồn tại trong Khung phân loại ISCED 2011 của UNESCO. Hệ thống quốc tế phân loại mạch lạc từ tiểu học (level 1), THCS (level 2), THPT (level 3), rồi sang giáo dục sau trung học và đại học (level 4–8).

Không quốc gia nào công nhận một bậc gọi là “trung cấp” trong hệ thống giáo dục, vì vậy, người học Việt Nam gặp bất lợi khi muốn học tiếp hay kiếm việc ở nước ngoài.

Trong khi đó, ở Mỹ và nhiều nước khác, các khóa học sau phổ thông nhưng chưa đạt bằng cao đẳng được gọi là “some college non-university” (tạm dịch là một phần chương trình cao đẳng nhưng không phải đại học) hoặc “postsecondary skills training” (tạm dịch là đào tạo kỹ năng sau phổ thông), vừa thực tế vừa linh hoạt mà không tạo ra ảo tưởng về một trình độ chính danh.

Pháp luật Việt Nam cũng chưa bao giờ xác lập rõ “trung cấp”. Nghị định 90/1993 - văn bản nền về cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân thì sau THCS - chỉ ghi nhận hai hướng: Trung học nghề và Trung học kỹ thuật, tuyệt nhiên không có “trung cấp”.

Sau này (2003), do thiếu cơ sở giáo dục đại học và sức ép nhu cầu học tập sau THPT tăng, các trường trung học chuyên nghiệp được phép tuyển học sinh tốt nghiệp THPT và được gọi là “Trung cấp chuyên nghiệp” - một giải pháp hành chính tình thế. Sự tình thế ấy dần biến thành thói quen, tồn tại vì “quen miệng” hơn là có cơ sở lý luận.

Khái niệm “trung cấp” không phải là một bậc trình độ trong khung quốc tế. Sau THPT, các nước chỉ có postsecondary (sau trung học) với nhiều lộ trình: chứng chỉ kỹ năng (ISCED 4), chương trình cao đẳng ngắn hạn (ISCED 5) và bậc đại học (ISCED 6–8).

Các trường nghệ thuật hay thể thao ở phổ thông (nếu có) cũng chỉ là trường chuyên thuộc bậc Trung học (như khối trường Văn hóa nghệ thuật, Thể thao của Hàn Quốc), chứ không phải một “trình độ trung cấp” độc lập.

Với việc giữ “trung cấp”, khi tham gia các hiệp định công nhận văn bằng trong ASEAN hay EU, Việt Nam gặp khó vì không biết đối sánh “trung cấp” vào đâu: coi là THPT thì không đủ, coi gần cao đẳng thì thiếu tín chỉ.

Giữ “trung cấp” chẳng khác nào duy trì một đơn vị đo lường riêng, bắt cả thế giới phải dịch nghĩa, cuối cùng thiệt thòi vẫn là người học.

Trong nước, hệ quả cũng rõ: mỗi trình độ cần chuẩn đầu ra, khung năng lực, khối lượng kiến thức, nhưng "trung cấp" đứng lửng lơ - không có đủ kiến thức nền tảng (foundation knowledge) để coi là bậc sau THPT, cũng không đủ độ chuyên sâu để coi là cao đẳng.

Liên thông lên đại học trở thành nghịch lý: ngang trung học nghề thì không có cơ sở, gần cao đẳng thì thiếu tín chỉ. Nhiều trường nghề hiện nay lúng túng không biết xây dựng chương trình theo hướng nào.

Nếu dự thảo Luật Giáo dục nghề nghiệp mới tiếp tục quy định song song “trung cấp” và “trung học nghề” tạo nên sự bất hợp lý.

Xu thế thế giới rất rõ: sau THPT, người học chỉ có một lựa chọn chung là giáo dục sau trung học (postsecondary). Họ có thể chọn cao đẳng, học kỹ năng nghề hoặc học đại học, nhưng không có bậc “trung cấp” độc lập.

Một vấn đề khác là sự nhập nhằng giữa “trung cấp” trong giáo dục và trong phân loại lao động. Trên thị trường, “trung cấp” có thể chỉ vị trí nghề, như kỹ thuật viên trung cấp, nhưng đó là cách gọi nghề nghiệp, không phải trình độ đào tạo. Người làm công việc đó có thể tốt nghiệp trung học nghề, cao đẳng hay thậm chí đại học. 

Với xu hướng mới, chúng ta không thể vừa muốn đi cùng thế giới, vừa giữ khái niệm chỉ tồn tại riêng. 

Thay vào đó, hệ thống cần khẳng định rõ: THPT - trung học nghề/trung học kỹ thuật - cao đẳng - đại học - sau đại học. Đây không chỉ là điều chỉnh danh xưng mà còn là bước đi bắt buộc để hội nhập, bảo vệ công bằng cho người học và nâng cao uy tín quốc gia.

TS Hoàng Ngọc Vinh

Nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp, Bộ GD&ĐT

Nguồn: https://dantri.com.vn/giao-duc/trung-cap-diem-nghen-khien-nguoi-hoc-thiet-thoi-khi-ra-the-gioi-20251005091206908.htm


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Tái hiện Trung thu cung đình thời Lý tại Hoàng thành Thăng Long
Khách Tây thích thú mua đồ chơi Trung thu phố Hàng Mã về tặng con, cháu
Phố Hàng Mã rực rỡ sắc màu Trung thu, giới trẻ nô nức check-in không ngớt
Thông điệp lịch sử: Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm - di sản tư liệu của nhân loại

Cùng tác giả

Di sản

;

Nhân vật

;

Doanh nghiệp

;

No videos available

Thời sự

;

Hệ thống Chính trị

;

Địa phương

;

Sản phẩm

;