Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Kỳ 1: Nghị quyết 57-NQ/TW – Động lực cho đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng

Ngày 22/12/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về “Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”. Đây là Nghị quyết mang tính chiến lược, thể hiện tầm nhìn xa, quyết tâm cao của Đảng nhằm đưa khoa học – công nghệ trở thành động lực trung tâm thúc đẩy phát triển đất nước.

Báo Quốc TếBáo Quốc Tế26/10/2025

Hình ảnh được tạo bằng AI: Ứng dụng công nghệ thông tin và những mô hình mới nhằm cải tiến sinh hoạt đảng và quản lý đảng viên; Những mô hình mới về hình thức sinh hoạt đảng đối với Chi bộ,  Đảng bộ cơ sở ở nơi đặc thù hoặc trong hoàn cảnh đặc biệt
Hình ảnh được tạo bằng AI: Ứng dụng công nghệ thông tin và những mô hình mới nhằm cải tiến sinh hoạt đảng và quản lý đảng viên; Những mô hình mới về hình thức sinh hoạt đảng đối với Chi bộ, Đảng bộ cơ sở ở nơi đặc thù hoặc trong hoàn cảnh đặc biệt

Đặc biệt, Nghị quyết cũng mở ra hướng đi mới cho công tác xây dựng Đảng trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và tiến trình chuyển đổi số quốc gia. Việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) và đổi mới mô hình sinh hoạt Đảng trở thành nhiệm vụ cấp thiết để nâng cao hiệu quả lãnh đạo, quản lý, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, hiện đại và gần dân hơn.

Trong nhiều năm qua, Đảng ta luôn quan tâm đổi mới phương thức lãnh đạo, song phần lớn vẫn dựa trên các hình thức quản lý truyền thống, dựa nhiều vào hồ sơ giấy tờ và giao tiếp trực tiếp. Trong bối cảnh kinh tế số, xã hội số phát triển mạnh mẽ, mô hình này bộc lộ những hạn chế nhất định: thông tin truyền đạt chậm, khó kiểm soát, công tác giám sát, kiểm tra đôi khi chưa kịp thời và minh bạch. Chính vì vậy, Nghị quyết 57-NQ/TW ra đời với nội dung rất mới: Gắn kết chuyển đổi số với công tác xây dựng Đảng, coi đây là một khâu đột phá để nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của Đảng, hiện đại hóa toàn bộ quy trình hoạt động từ Trung ương đến cơ sở.

Nghị quyết xác định rõ, phát triển khoa học – công nghệ và chuyển đổi số không chỉ phục vụ sản xuất, kinh doanh hay quản lý nhà nước, mà còn phải trở thành nền tảng để đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ và quản lý đảng viên. Điều này tạo ra cơ hội để chi bộ – tế bào của Đảng – trở thành hạt nhân đi đầu trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia, đồng thời giúp Đảng thực sự gần gũi và đồng hành cùng nhân dân trong thời đại số.

Thực trạng sinh hoạt chi bộ và quản lý đảng viên: Nhiều thách thức đặt ra

Hiện nay, cả nước có hơn 5,3 triệu đảng viên, đang sinh hoạt tại hàng trăm nghìn chi bộ, đảng bộ cơ sở. Đây là một lực lượng chính trị hùng hậu, giữ vai trò nòng cốt trong hệ thống chính trị. Tuy nhiên, công tác sinh hoạt và quản lý đảng viên đang đối diện với nhiều khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh yêu cầu hiện đại hóa và chuyển đổi số ngày càng cấp bách. Không ít chi bộ hoạt động ở vùng sâu, vùng xa, hải đảo, biên giới, nơi điều kiện giao thông khó khăn, cơ sở vật chất thiếu thốn. Ở các doanh nghiệp tư nhân, khu công nghiệp hoặc đơn vị sản xuất phân tán, việc tập hợp đảng viên tham gia sinh hoạt định kỳ càng trở nên phức tạp. Điều này dẫn đến tình trạng sinh hoạt chi bộ không đúng thời gian quy định, gây gián đoạn công tác lãnh đạo, ảnh hưởng đến hiệu quả triển khai Nghị quyết và chủ trương của Đảng.

Công tác quản lý đảng viên vẫn dựa chủ yếu vào hồ sơ giấy tờ thủ công. Việc tra cứu, tổng hợp thông tin phải làm bằng tay, mất nhiều thời gian và tiềm ẩn nguy cơ sai lệch dữ liệu. Khi cần thống kê số liệu hoặc theo dõi biến động đảng viên, các cấp ủy thường gặp lúng túng, thiếu cơ sở dữ liệu chính xác để phục vụ công tác chỉ đạo. Điều này không chỉ gây lãng phí nguồn lực nhân sự, mà còn ảnh hưởng đến tính minh bạch, kịp thời trong quản lý, nhất là khi phát sinh các vấn đề như điều chuyển, khen thưởng, kỷ luật hoặc xét duyệt hồ sơ đảng viên. Một thực tế đáng lo ngại là ở nhiều nơi, sinh hoạt chi bộ còn mang tính hình thức, chưa khơi dậy được trí tuệ tập thể và tính dân chủ trong thảo luận. Nội dung sinh hoạt thường khô cứng, nặng tính báo cáo, thiếu sự gắn kết với thực tiễn, chưa kịp thời cập nhật các vấn đề thời sự và tính chiến đấu trong công tác xây dựng Đảng làm giảm sức hấp dẫn, khiến một bộ phận đảng viên, nhất là đảng viên trẻ, chưa thực sự hứng thú, chưa phát huy được vai trò tiên phong, gương mẫu.

Sự chỉ đạo từ cấp ủy cấp trên xuống cơ sở chưa thật sự kịp thời. Trong các tình huống đột xuất như thiên tai, dịch bệnh, hoặc giãn cách xã hội, hoạt động sinh hoạt Đảng dễ bị gián đoạn. Nhiều chi bộ không thể họp đúng kỳ hạn, làm suy giảm tính liên tục trong lãnh đạo và quản lý. Trong khi đó, việc thiếu nền tảng công nghệ chuyên biệt khiến nhiều nơi buộc phải sử dụng các công cụ trực tuyến phổ thông, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn thông tin, đồng thời không đảm bảo tính pháp lý cho hoạt động của tổ chức Đảng.

Việc đổi mới phương thức sinh hoạt và quản lý đảng viên không chỉ giải quyết các bất cập hiện nay, mà còn góp phần nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng từ cơ sở đến Trung ương, đáp ứng yêu cầu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh trong thời kỳ mới. Bằng cách chuyển đổi số, hệ thống chính trị có thể vượt qua những rào cản truyền thống, đồng thời phát huy tối đa tiềm năng của lực lượng đảng viên, khẳng định vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng trong giai đoạn hội nhập và phát triển.

Các mô hình ứng dụng công nghệ thông tin trong sinh hoạt Đảng

Nhiều địa phương, đơn vị đã chủ động triển khai các mô hình mới, tận dụng công nghệ để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ và quản lý đảng viên.

Mô hình chi bộ số toàn diện, mỗi đảng viên có hồ sơ điện tử gắn với mã định danh duy nhất, lưu trữ toàn bộ quá trình công tác, rèn luyện, khen thưởng, kỷ luật. Các buổi sinh hoạt chi bộ có thể diễn ra trực tiếp hoặc trực tuyến, với biên bản và Nghị quyết được ký số, lưu trữ bằng công nghệ blockchain, đảm bảo tính minh bạch và an toàn tuyệt đối. Hệ thống tích hợp công cụ phân tích dữ liệu, tự động thống kê tỷ lệ tham gia sinh hoạt, số lượng ý kiến phát biểu, chất lượng biểu quyết, giúp cấp ủy có cái nhìn tổng thể và chính xác về hoạt động của chi bộ.

Mô hình chi bộ số không chỉ giảm tối đa giấy tờ thủ công, tiết kiệm thời gian, chi phí mà còn tạo ra một kho dữ liệu lớn phục vụ công tác quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm cán bộ. Đồng thời, tăng cường kết nối giữa đảng viên, chi bộ và cấp ủy cấp trên, đảm bảo thông tin thông suốt, kịp thời. Với những chi bộ ở vùng sâu, vùng xa, hải đảo, biên giới hoặc nơi đảng viên phân tán, mô hình sinh hoạt trực tuyến hoặc kết hợp trực tuyến – trực tiếp đang chứng minh tính hiệu quả. Trong mô hình này, các điểm cầu phụ được kết nối với điểm cầu chính qua hệ thống truyền hình trực tuyến, đảm bảo đảng viên dù ở đâu vẫn có thể tham gia sinh hoạt đầy đủ. Mô hình này đặc biệt phát huy tác dụng trong các tình huống khẩn cấp như thiên tai, dịch bệnh, giúp sinh hoạt Đảng không bị gián đoạn. Để thực hiện thành công, cần hạ tầng mạng ổn định, ưu tiên công nghệ vệ tinh hoặc 5G; nền tảng sinh hoạt chuyên biệt với tính bảo mật cao và cơ chế xác thực danh tính chặt chẽ. Cán bộ, đảng viên cũng phải được tập huấn kỹ năng công nghệ để sử dụng thành thạo.

Mô hình chi bộ gắn với tổ công nghệ số cộng đồng. Trong đó, chi bộ không chỉ lãnh đạo về mặt chính trị mà còn trực tiếp vận hành, điều phối các tổ công nghệ số tại thôn, bản. Đảng viên đóng vai trò tiên phong trong việc hướng dẫn người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến, thanh toán điện tử, đăng ký tài khoản định danh số, từ đó góp phần thúc đẩy chuyển đổi số ở cơ sở. Mô hình này vừa nâng cao năng lực số của cộng đồng, vừa khẳng định vai trò dẫn dắt của Đảng trong tiến trình hiện đại hóa đất nước.

Giải pháp công nghệ, cơ chế chính sách và đào tạo nguồn nhân lực

Để các mô hình trên phát huy hiệu quả, cần triển khai đồng bộ nhiều nhóm giải pháp, trong đó trọng tâm là công nghệ, cơ chế chính sách và con người.

Về công nghệ, trước hết phải xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu đảng viên toàn quốc, liên thông từ Trung ương đến cơ sở, đồng bộ với cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia. Mỗi đảng viên sẽ có mã định danh duy nhất, thuận tiện cho việc quản lý, tra cứu. Hệ thống này cần tích hợp trí tuệ nhân tạo (AI) để phân tích dữ liệu, dự báo xu hướng, hỗ trợ công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ. Bên cạnh đó, cần xây dựng nền tảng sinh hoạt Đảng chuyên biệt, có tính bảo mật cao, tích hợp đầy đủ các chức năng như biểu quyết trực tuyến, ký số, ghi biên bản tự động, lưu trữ tài liệu điện tử. Song song với đó, phải phát triển các giải pháp bảo mật, an ninh mạng nhiều tầng, có cơ chế cảnh báo sớm và thường xuyên đánh giá, khắc phục rủi ro.

Về cơ chế, chính sách, cần sớm hoàn thiện khung pháp lý cho sinh hoạt trực tuyến, quy định rõ giá trị pháp lý của biên bản, Nghị quyết điện tử, cơ chế giám sát từ xa và cách xử lý tình huống phát sinh. Đồng thời, cần có chính sách đầu tư hợp lý, ưu tiên ngân sách cho hạ tầng số tại vùng đặc thù, đồng thời khuyến khích xã hội hóa, hợp tác công – tư trong phát triển nền tảng công nghệ. Việc đánh giá, khen thưởng cán bộ cũng cần gắn với kết quả ứng dụng CNTT và chuyển đổi số, khuyến khích cán bộ mạnh dạn đề xuất sáng kiến.

Con người là yếu tố then chốt. Cần đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng số cho cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những người phụ trách công tác Đảng ở cơ sở. Mỗi chi bộ nên có ít nhất một “hạt nhân số” am hiểu công nghệ, đóng vai trò nòng cốt trong triển khai các hoạt động trực tuyến. Nội dung chuyển đổi số cũng cần được đưa vào chương trình đào tạo chính trị, lý luận cho đảng viên mới và cán bộ nguồn. Đồng thời, phát động phong trào thi đua “Đảng viên tiên phong trong chuyển đổi số” gắn với đánh giá hằng năm, tạo động lực để toàn hệ thống cùng tiến lên.

Việc ứng dụng CNTT vào công tác Đảng chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn. Hạ tầng mạng chưa đồng bộ, đặc biệt ở miền núi, hải đảo, là rào cản lớn. Trình độ CNTT giữa các địa phương, nhóm đảng viên có sự chênh lệch đáng kể. Nguy cơ lộ lọt thông tin, tấn công mạng luôn hiện hữu nếu không có giải pháp bảo mật mạnh mẽ. Ngoài ra, một bộ phận cán bộ, đảng viên còn tâm lý e ngại, chưa sẵn sàng thay đổi phương thức làm việc truyền thống.

Để khắc phục, cần ưu tiên đầu tư hạ tầng số theo phương châm “vùng khó khăn đi trước”, coi đây là nền tảng căn bản cho mọi hoạt động. Đồng thời, tăng cường hợp tác với doanh nghiệp công nghệ trong đào tạo, chuyển giao kỹ thuật, nâng cao trình độ CNTT cho cán bộ. Công tác bảo mật phải được đặt lên hàng đầu, với hệ thống phòng thủ nhiều lớp, quy trình kiểm tra nghiêm ngặt. Song song đó, công tác tuyên truyền cần được đẩy mạnh, giúp cán bộ, đảng viên nhận thức rõ lợi ích và trách nhiệm trong chuyển đổi số, từ đó sẵn sàng thay đổi và chủ động thích ứng.

Việc ứng dụng công nghệ thông tin và đổi mới mô hình sinh hoạt Đảng không chỉ là xu thế tất yếu, mà còn là yêu cầu cấp bách nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu của Nghị quyết 57-NQ/TW. Các mô hình chi bộ số, sinh hoạt trực tuyến, quản lý đảng viên bằng dữ liệu lớn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả lãnh đạo, đảm bảo tính dân chủ, minh bạch, hiện đại. Đây là bước chuyển mình mang tính đột phá, giúp Đảng ta tiếp tục khẳng định vai trò tiên phong, lãnh đạo toàn diện, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững trong kỷ nguyên số.

Chuyển đổi số không chỉ là công cụ, mà còn là động lực để Đảng luôn vững mạnh, đủ sức lãnh đạo trong mọi tình huống, mọi thời kỳ. Với quyết tâm chính trị cao, sự vào cuộc đồng bộ của toàn Đảng, toàn Dân ứng dụng CNTT trong sinh hoạt Đảng và quản lý đảng viên chắc chắn sẽ trở thành một trong những đột phá quan trọng nhất của công cuộc xây dựng Đảng trong giai đoạn mới.

Tác giả: Võ Thành Phương; Đoàn Nguyệt Nga – Ban Tổ chức Đảng ủy BIDV

Nguồn: https://baoquocte.vn/ky-1-nghi-quyet-57-nqtw-dong-luc-cho-doi-moi-phuong-thuc-lanh-dao-cua-dang-332606.html


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Cao nguyên đá Đồng Văn - 'bảo tàng địa chất sống' hiếm có trên thế giới
Ngắm phố biển của Việt Nam lọt top điểm đến hàng đầu thế giới năm 2026
Ngắm nhìn 'Vịnh Hạ Long trên cạn' vừa lọt top điểm đến yêu thích nhất thế giới
Cảnh hoa súng 'nhuộm hồng' Ninh Bình nhìn từ trên cao

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

Các toà nhà cao tầng ở TP.HCM chìm trong sương mù

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm