Thành tựu đáng tự hào
Cách đây 72 năm, tại Chiến khu Việt Bắc lịch sử, Ban Nghiên cứu Lịch sử, Địa lý, Văn học – tiền thân của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ngày nay – đã chính thức được thành lập theo Quyết nghị số 34 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Sự kiện này không chỉ đánh dấu sự ra đời của tổ chức nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà còn phản ánh tầm nhìn chiến lược của Đảng về vai trò nền tảng của khoa học xã hội và nhân văn đối với sự nghiệp cách mạng. Trải qua 72 năm xây dựng và phát triển, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã trưởng thành, lớn mạnh về mọi mặt.
Trong 72 năm đã qua, chức năng nhiệm vụ của Viện ngày càng được mở rộng, tăng cường. Cơ cấu tổ chức được kiện toàn; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức lớn mạnh vượt bậc cả về số lượng và chất lượng, trở thành trung tâm nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn hàng đầu của đất nước. Tên gọi của Viện cũng đã nhiều lần được bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng và chính thức mang tên Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam từ năm 2012 đến nay.
Theo Nghị định số 32/2025/NĐ-CP ngày 25/02/2025 của Chính phủ, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam là cơ quan thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng nghiên cứu những vấn đề cơ bản về khoa học xã hội, cung cấp luận cứ khoa học cho hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; tư vấn phát triển và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao với 14 nhóm nhiệm vụ trọng yếu bao trùm các lĩnh vực của khoa học xã hội và nhân văn.
Về cơ cấu tổ chức và nhân sự, từ một vài tổ nghiên cứu chuyên môn ban đầu, Viện đã xây dựng được một hệ thống hoàn chỉnh, tinh gọn với mạng lưới các viện nghiên cứu, đơn vị đào tạo và tạp chí khoa học chuyên ngành. Đội ngũ cán bộ của Viện đã phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đã có thời điểm, chúng ta có gần 2.000 cán bộ, viên chức, người lao động, trong đó có hàng trăm giáo sư, phó giáo sư và tiến sĩ. Nhiều nhà khoa học ưu tú của Viện Hàn lâm đã trở thành những nhà lãnh đạo, quản lý xuất sắc, có đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
Thực hiện Nghị quyết 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, Viện Hàn lâm đã tái cơ cấu, sắp xếp lại bộ máy, giảm đầu mối xuống còn 26 đơn vị thuộc và trực thuộc, trong đó có 19 đơn vị nghiên cứu, 1 đơn vị đào tạo; 25 tạp chí khoa học.
Về nghiên cứu khoa học, Viện Hàn lâm đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lịch sử, triết học, khảo cổ học, xã hội học, pháp luật, văn hóa, con người, tâm lý học, văn học, ngôn ngữ, dân tộc, tôn giáo, quốc phòng, an ninh, khu vực và quốc tế, phát triển bền vững,… Những đóng góp ấy được thể hiện sinh động qua hàng nghìn chương trình, đề án, đề tài các cấp được nghiệm thu thành công; hơn 7.000 đầu sách đã xuất bản; hàng vạn bài báo khoa học công bố trên các tạp chí trong nước và quốc tế. Đặc biệt, có 21 nhà khoa học của Viện có công trình, cụm công trình được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh; 28 nhà khoa học có công trình, cụm công trình được trao tặng Giải thưởng Nhà nước; có đơn vị được phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới.
Về tư vấn chính sách, các kết quả nghiên cứu đã cung cấp nhiều luận cứ có giá trị cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước; cung cấp những luận cứ khoa học cho đường lối đổi mới toàn diện đất nước dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần vào sự hình thành những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền và lãnh đạo của Đảng; về xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh…
Các nghiên cứu về chính trị, pháp luật, xã hội, môi trường, về cục diện thế giới, về toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,… đều có những bước đi tiên phong, kết quả nổi bật, đóng góp thiết thực, được Đảng, Nhà nước và xã hội ghi nhận. Đặc biệt là việc cung cấp báo cáo phân tích, dự báo định kỳ hàng tháng phục vụ phiên họp Chính phủ, được đánh giá cao về tính ứng dụng và chiều sâu khoa học.
Về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, từ năm 1978 đến nay, thông qua các viện nghiên cứu chuyên ngành và Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm đã đào tạo số lượng lớn các tiến sĩ, thạc sĩ thuộc nhiều chuyên ngành, đóng góp thiết thực trong việc nâng cao chất lượng, phát triển nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn của cả nước. Nhiều cán bộ khoa học, cán bộ quản lý được đào tạo, bồi dưỡng ở các viện nghiên cứu chuyên ngành của Viện Hàn lâm và sau này là Học viện Khoa học xã hội đã trở thành những nhà khoa học lớn; những nhà quản lý giỏi, giữ trọng trách trong các cơ quan nghiên cứu và bộ máy nhà nước.
Về công tác đối ngoại và hợp tác với các cơ quan bộ, ngành địa phương, Viện Hàn lâm đã phát triển quan hệ hợp tác nghiên cứu, tư vấn, tổ chức diễn đàn với nhiều ban, bộ, ngành, đoàn thể ở Trung ương và địa phương; quan hệ hợp tác khoa học, trao đổi học thuật và đào tạo nhân lực với hàng trăm các tổ chức, quỹ khoa học uy tín, trường đại học lớn trên thế giới. Nhiều diễn đàn, hội thảo quốc tế do Viện Hàn lâm phối hợp với các đối tác nước ngoài tổ chức trong những năm qua đã tạo được tiếng vang, sức lan tỏa về khoa học trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, góp phần tích cực trong quá trình hội nhập quốc tế và thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta.
Trong diễn văn chào mừng lễ kỷ niệm, Giáo sư, Tiến sĩ Lê Văn Lợi, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội và nhân văn bày tỏ lòng tri ân sâu sắc các thế hệ lãnh đạo, các nhà khoa học tiền bối - những người đã đặt nền móng và dày công vun đắp cho sự nghiệp khoa học xã hội và nhân văn nước nhà như Giáo sư, Viện sĩ Trần Huy Liệu, Giáo sư, Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn, Giáo sư Trần Văn Giàu, Giáo sư Đào Duy Anh, Giáo sư Đào Văn Tập, Giáo sư, Viện sĩ Phạm Huy Thông và nhiều nhà khoa học tên tuổi khác. Thành tựu của Viện Hàn lâm hôm nay chính là sự kế thừa và phát huy xứng đáng truyền thống vẻ vang đó.
Giáo sư, Tiến sĩ Lê Văn Lợi thẳng thắn nhìn nhận, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đang đứng trước rất nhiều thách thức, khó khăn như: Sự suy giảm về chất lượng nguồn nhân lực, nhất là đội ngũ chuyên gia đầu ngành đã dẫn đến sự hẫng hụt giữa các thế hệ cán bộ nghiên cứu và quản lý. Sản phẩm khoa học, dù phong phú về số lượng, vẫn còn ít những công trình mang tính đột phá, có khả năng luận giải thấu đáo các vấn đề lý luận và thực tiễn phức tạp của thời kỳ mới. Công tác tư vấn chính sách đôi khi chưa thực sự sắc bén và kịp thời, trong khi việc chuyển hóa các kết quả nghiên cứu thành đề xuất cụ thể vẫn là một khoảng cách cần thu hẹp. Hoạt động đào tạo sau đại học gặp nhiều khó khăn trong tuyển sinh, thu hút, giữ chân nhân tài và duy trì các ngành khoa học cơ bản, đặc thù. Hợp tác quốc tế còn chưa tương xứng với tiềm năng, bị chi phối bởi nguồn lực hạn chế và những rào cản về cơ chế, khiến việc hội nhập với trình độ khoa học thế giới gặp không ít trở ngại.
Chúng ta đang sống trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều biến đổi sâu sắc, phức tạp và khó lường. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xu thế toàn cầu hóa, biến đổi khí hậu, các vấn đề an ninh phi truyền thống… đặt ra cả thời cơ và thách thức to lớn. Trong bối cảnh đó, khoa học xã hội và nhân văn càng phải khẳng định vai trò tiên phong trong việc cung cấp hệ tri thức, luận cứ khoa học để nhận diện, dự báo và đề xuất các giải pháp cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Ghi nhận vai trò ấy, Nghị quyết số 45-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đã xác định rõ chủ trương tập trung nguồn lực để phát triển Viện Hàn lâm thành cơ sở đào tạo, nghiên cứu trọng điểm, ngang tầm các nước tiên tiến. Nghị quyết số 45-NQ/TW cùng với Nghị quyết số 57-NQ/TW và các nghị quyết quan trọng được Bộ Chính trị ban hành trong thời gian gần đây về khoa học công nghệ, hội nhập quốc tế, kinh tế tư nhân và giáo dục - đào tạo đã khẳng định tính cấp thiết của việc phát triển khoa học công nghệ nói chung và khoa học xã hội và nhân văn nói riêng trong giai đoạn mới. Đây vừa là vinh dự lớn, vừa là trách nhiệm lịch sử đặt lên vai mỗi chúng ta.
Một số định hướng lớn
Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam xác định giai đoạn tới, Viện sẽ tập trung vào một số định hướng lớn như sau:
Thứ nhất, tiếp tục sắp xếp hệ thống tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, gắn với đổi mới cơ chế quản lý, điều hành, tổ chức công việc theo hướng hiện đại, đảm bảo tính đồng bộ, liên thông, phối hợp công tác chặt chẽ, nhằm thực hiện hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, nhất là trong các lĩnh vực nghiên cứu trọng điểm, thuộc thế mạnh của Viện Hàn lâm, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu hướng phát triển phổ quát trên thế giới.
Thứ hai, tiếp tục phát huy thế mạnh trong nghiên cứu khoa học cơ bản, với các chương trình, đề án nghiên cứu lớn, quan trọng; tạo chuyển biến mạnh trong chất lượng các sản phẩm khoa học như các đề tài, dự án nghiên cứu, các hội thảo, tọa đàm, diễn đàn khoa học, các ấn phẩm, tạp chí chuyên ngành, từng bước tiệm cận và tiến tới đạt chuẩn mực quốc tế.
Thứ ba, chủ động nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn lớn, cấp bách của đất nước, cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch cho Đảng và Nhà nước; thực hiện các khảo sát chuyên sâu, công bố các báo cáo nghiên cứu có giá trị khoa học lớn, các đánh giá, dự báo tình hình có giá trị thực tiễn và định hướng chính sách cao. Tham gia nghiên cứu, đánh giá tác động của việc sắp xếp tổ chức bộ máy, đề xuất các giải pháp quản lý phát triển xã hội trong thời kỳ mới; đẩy mạnh các nghiên cứu phục vụ triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV; nghiên cứu, dự báo tình hình thế giới, quan hệ quốc tế và các xu hướng mới như chủ nghĩa tư bản số, chủ nghĩa xã hội công nghệ số, tinh hoa trí tuệ nhân loại để vận dụng vào tiến trình phát triển đất nước.
Thứ tư, đổi mới căn bản, toàn diện công tác đào tạo cán bộ nghiên cứu trình độ cao trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn; gắn kết chặt chẽ hoạt động đào tạo với nghiên cứu khoa học, góp phần cung cấp nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn chất lượng cao cho Viện Hàn lâm và cả nước.
Thứ năm, thực hiện tốt quy hoạch phát triển nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ cao, phương pháp nghiên cứu tiên tiến, có đủ năng lực, trình độ để thực hiện những nhiệm vụ khoa học lớn, từng bước hình thành các chuyên gia đầu ngành và các nhóm nghiên cứu mạnh; tạo dựng môi trường học thuật dân chủ, đoàn kết, sáng tạo, tôn trọng tự do học thuật; khuyến khích và tạo mọi điều kiện để các nhà khoa học sáng tạo và cống hiến, xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học, cán bộ quản lý kế cận.
Thứ sáu, tiếp tục phát triển hoạt động hợp tác về nghiên cứu khoa học với các tổ chức nghiên cứu, đào tạo của nước ngoài, các thiết chế quốc tế; tăng cường quan hệ hợp tác trong nghiên cứu khoa học với các ban, bộ, ngành ở Trung ương và các địa phương.
Thứ bảy, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tạp chí, xuất bản, thông tin khoa học, bảo tàng. Bảo đảm các hoạt động tạp chí, xuất bản, thông tin khoa học và bảo tàng hỗ trợ đắc lực cho công tác nghiên cứu khoa học, đồng thời lan tỏa các giá trị sáng tạo của Viện Hàn lâm trong đời sống xã hội và trên trường quốc tế.
Thứ tám, tập trung đầu tư hiện đại hóa cơ sở vật chất - kỹ thuật, thực hiện chuyển đổi số và ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ trong quản lý nội bộ và tổ chức thực hiện các hoạt động nghiên cứu; kết nối, chia sẻ dữ liệu, kết quả nghiên cứu, hình thành hệ thống thông tin, tư liệu, thư viện hiện đại đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Triển khai hiệu quả Đề án thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW với các giải pháp đột phá, phấn đấu xây dựng Viện Hàn lâm trở thành trung tâm nghiên cứu trọng điểm, ngang tầm khu vực và thế giới, đáp ứng sự kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Thứ chín, thực hiện tốt công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, xây dựng tổ chức đảng và đơn vị trong sạch, vững mạnh toàn diện. Tiên phong trong nghiên cứu, tuyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái thù địch, nhất là trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn.
Nguồn: https://nhandan.vn/phat-huy-vai-tro-tien-phong-cua-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van-trong-phat-trien-dat-nuoc-post927488.html






Bình luận (0)