Mục tiêu phát triển tầm vóc này là một phần trong Nghị quyết 72 mới ban hành của Bộ Chính trị về các giải pháp đột phá nhằm tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. Theo đó, trọng tâm không chỉ là thể lực, trí lực và tầm vóc mà còn hướng tới tăng tuổi thọ khỏe mạnh của người dân, dự kiến đạt 75,5 tuổi và số năm sống khỏe mạnh tối thiểu 68 năm vào 2030.
Tiến sĩ, bác sĩ Trương Hồng Sơn, Phó tổng Thư ký Tổng hội Y học Việt Nam và Viện trưởng Viện Y học ứng dụng Việt Nam, cho biết chiều cao trung bình của người Việt đã được cải thiện đáng kể, đặc biệt trong thập kỷ vừa qua. Kết quả Tổng điều tra Dinh dưỡng Quốc gia giai đoạn 2019-2020 do Viện Dinh dưỡng và Tổng cục Thống kê cho thấy, chiều cao trung bình của nam thanh niên Việt Nam đạt 168,1 cm, trong khi nữ là 156,2 cm. So với 10 năm trước đó, con số này đã tăng tương ứng 3,7 cm ở nam và 2,6 cm ở nữ.
"Đây là mức tăng đáng kể, được đánh giá là nhanh nhất từ trước đến nay, và giúp Việt Nam không còn nằm trong nhóm 'lùn nhất Đông Nam Á'", bác sĩ Sơn nói. Ông còn so sánh rằng tốc độ tăng chiều cao của thanh niên Việt Nam trong giai đoạn 1990-2020 tương đương với "thời kỳ vàng" của Nhật Bản về tăng chiều cao thanh niên, diễn ra từ năm 1955 đến 1995.
Dù tầm vóc người Việt đã cải thiện, tiến sĩ Sơn nhận định vẫn còn nhiều rào cản cần khắc phục để đảm bảo thể lực cũng như tầm vóc cho các thế hệ tương lai. Một trong những vấn đề cốt lõi là sự chênh lệch đáng kể giữa các vùng miền.
Mặc dù tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi cả nước giảm xuống dưới 20%, song sự khác biệt khu vực vẫn rất lớn. Các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên là nơi có tỷ lệ thấp còi cao nhất, thường xuyên dao động trên 25%, thậm chí có tỉnh lên tới 30% hoặc hơn. Ngược lại, khu vực thành thị ghi nhận tỷ lệ thấp còi thấp hơn nhiều so với nông thôn. Trong đó, trẻ em và thanh thiếu niên tại các thành phố lớn như Hà Nội và TP Hồ Chí Minh có chiều cao trung bình cao hơn đáng kể so với các vùng sâu xa.
Bên cạnh đó là vấn đề chất lượng dinh dưỡng và thiếu vi chất. Tỷ lệ thiếu máu và thiếu kẽm vẫn ở mức cao ở trẻ em, phụ nữ mang thai. Đặc biệt, tình trạng thiếu kẽm là vấn đề phổ biến, ảnh hưởng gần 58% trẻ em dưới 5 tuổi và 63,7% phụ nữ mang thai. Kẽm là vi chất thiết yếu cho quá trình tăng trưởng và phát triển. Thiếu vitamin D và canxi cũng phổ biến, nhất là ở các đô thị lớn, do chế độ ăn chưa cân đối và lối sống ít tiếp xúc với ánh nắng mặt trời.
Một xu hướng đối nghịch khác là sự gia tăng nhanh chóng của tỷ lệ thừa cân béo phì ở trẻ em tuổi học đường (5-19 tuổi), đặc biệt ở khu vực thành thị. Tỷ lệ thừa cân béo phì chung cả nước ở trẻ em dưới 5 tuổi là 5,8% vào năm 2020, vọt lên 9,8% ở khu vực thành thị. Tại các đô thị lớn như TP Hồ Chí Minh và Hà Nội, con số báo động là 30-40% ở một số nhóm tuổi. Sự mất cân bằng này cho thấy vấn đề không chỉ nằm ở thiếu dinh dưỡng mà còn ở chất lượng bữa ăn và lối sống ít vận động.
Trẻ em và thanh thiếu niên, nhất là ở thành phố, thường không dành đủ thời gian cho hoạt động thể chất, không đạt khuyến nghị tối thiểu 60 phút vận động vừa đến mạnh mỗi ngày. Thay vào đó, thời gian sử dụng thiết bị điện tử lại rất cao, góp phần tạo nên lối sống tĩnh tại. Nhiều khu vực đô thị còn thiếu sân chơi, công viên công cộng an toàn để trẻ em có thể vận động. Thói quen sinh hoạt chưa điều độ, như ngủ muộn và ăn uống thất thường, cũng làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển chiều cao.
Trước những thách thức phức tạp này, tiến sĩ Sơn đề xuất một chiến lược can thiệp ba mũi nhọn dinh dưỡng, thể chất vận động và nghiên cứu ứng dụng.
Về dinh dưỡng, cần tiếp tục tập trung vào chăm sóc dinh dưỡng cho bà mẹ mang thai và trẻ em dưới 5 tuổi. Việc tăng cường giáo dục và truyền thông về chế độ ăn hợp lý, đa dạng và đủ chất là rất quan trọng. Mục tiêu cụ thể là tăng tỷ lệ các trường học tổ chức bữa ăn học đường theo thực đơn khuyến nghị của Bộ Y tế, phấn đấu đạt 90% ở thành thị và 80% ở nông thôn vào năm 2030. Cùng với đó, cần kiểm soát tình trạng thừa cân, béo phì và giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi xuống dưới 15% vào năm 2030.
Về thể chất và vận động, cần tăng cường giáo dục thể chất trong hệ thống nhà trường, từ mẫu giáo đến đại học, đồng thời phát triển các câu lạc bộ thể thao học đường để khuyến khích học sinh tập luyện thường xuyên.
Cuối cùng, cần tập trung nghiên cứu các yếu tố cốt lõi ảnh hưởng đến tầm vóc và thể lực người Việt, xây dựng chuẩn thực đơn dinh dưỡng hàng ngày phù hợp với từng đối tượng, hoàn thiện hệ thống giám sát, theo dõi sức khỏe, dinh dưỡng.
Ông Sơn nói thêm các giải pháp can thiệp dinh dưỡng phải được triển khai liên tục, trên diện rộng toàn quốc, với các mục tiêu rõ ràng cho từng vùng và nhóm đối tượng.
"Việc ưu tiên tập trung giải quyết vấn đề cho phụ nữ mang thai và trẻ em sẽ là chìa khóa để hiện thực hóa mục tiêu tăng 1,5 cm chiều cao trung bình vào năm 2030", bác sĩ Sơn nhận định.
Đơn cử, tầm vóc của con người ảnh hưởng mạnh nhất là ở giai đoạn 1.000 ngày đầu đời (9 tháng mang thai và hai năm đầu đời), giai đoạn tiền học đường và dậy thì. Ở giai đoạn thai kỳ, trẻ phát triển từ 0 lên tới 50 cm chỉ trong 9 tháng, đây là giai đoạn phát triển chiều cao nhanh nhất. Năm đầu tiên sau sinh, chiều cao của trẻ tăng trung bình 25 cm. Năm thứ hai, trẻ tiếp tục tăng thêm khoảng 12,5 cm.
Khi kết thúc giai đoạn 1.000 ngày đầu đời, trẻ có thể đạt được 50% chiều cao trưởng thành. Nếu trong giai đoạn này, trẻ không nhận đủ các vi chất thiết yếu, chiều cao sẽ khó bù đắp hoàn toàn trong những năm tiếp theo. Sau giai đoạn này, tốc độ tăng chiều cao giảm xuống và chỉ có một đợt tăng mạnh ở tuổi dậy thì trước khi tốc độ tăng trưởng chậm lại và kết thúc vào khoảng năm 19 tuổi.
PV - VNNNguồn: https://baohaiphong.vn/tang-them-1-5-cm-chieu-cao-trong-7-nam-toi-viet-nam-can-lam-gi-522156.html
Bình luận (0)