Mỗi mùa bão đi qua, những ngôi trường vùng lũ lại lột xác từ bùn lầy dưới bàn tay của thầy và trò. Nhưng cùng với niềm vui được trở lại lớp là nỗi ám ảnh dai dẳng: Liệu năm sau, cơn lũ có cuốn đi tất cả thêm một lần nữa?
Chỉ trong 10 ngày từ cuối tháng 10 đến đầu tháng 11/2025, hàng trăm ngôi trường ở Huế và Đà Nẵng trải qua 3 đợt ngập lụt lịch sử. Nhiều trường thiệt hại lớn về cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy như sập tường, hỏng cổng, bàn ghế ngâm nước gãy mục, tivi máy chiếu, loa đài hỏng hóc, nhà vệ sinh hư hại vì bùn rác làm tắc nghẽn…
Không ít trường vừa dọn bùn rác, vệ sinh, khử khuẩn sau đợt lũ này thì đợt lũ khác ập về, bao nhiêu công sức của thầy cô giáo và chính quyền địa phương lại trôi theo dòng nước.
Theo thống kê của Sở GD&ĐT Huế, 500 trường học trong tổng số 570 trường của thành phố này bị ngập.
Ông Nguyễn Tân, Giám đốc Sở GD&ĐT TP Huế, cho biết trong đợt lũ vừa qua, nhiều trường học đã bị ngập hàng tháng. Song, do sống ở vùng quanh năm có lũ, đội ngũ giáo viên và nhà trường luôn giữ tinh thần cảnh giác cao độ. Khi nhận được cảnh báo lũ, thầy cô đã chủ động tháo toàn bộ máy móc, thiết bị và di chuyển tài sản lên tầng cao, nhờ đó không bị thiệt hại đáng kể.
Giám đốc Sở nhận định những nỗ lực của nhiều trường tại các vùng thấp trũng là rất đáng biểu dương. Dù thường xuyên phải đối mặt với nguy cơ và thiệt hại do lũ lụt, các trường đã có những hành động đáng ghi nhận trong việc bảo vệ tài sản một cách hiệu quả và khắc phục hậu quả sau lũ với tốc độ rất nhanh. Điều này thể hiện sự chủ động và tinh thần trách nhiệm cao của toàn thể cán bộ, giáo viên các trường.
Cũng theo người đứng đầu ngành giáo dục TP Huế, ngoài việc tự bảo quản tài sản, tại Huế còn có phong trào “trường vùng cao ủng hộ vùng thấp”. Cụ thể, các thầy cô ở vùng không ngập lụt sẽ được tăng cường đến các trường ngập để đánh bùn, nước rút đến đâu dọn bùn đến đó. Qua đó, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái trong ngành giáo dục càng được thắt chặt và nhân rộng, tạo nên sức mạnh tổng hợp để nhanh chóng đưa hoạt động dạy và học trở lại bình thường sau thiên tai.
Đặc biệt, tại Huế trước đây có một số công trình do các tổ chức nước ngoài tài trợ để chống lũ, trong đó có trường học chống lũ do Cơ quan hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) xây dựng tại một số xã vùng trũng.
Theo đó, trường học được xây cao tầng kiên cố tại những vị trí cao, để khi có lũ, bà con đến trường học tránh lũ.
Về giải pháp, ông Tân cho hay, do mức độ ngập lụt của các trường sẽ không giống nhau nên các trường “tùy cơ ứng biến” hoặc chia nhỏ học sinh thành từng nhóm để có kế hoạch dạy bù phù hợp.
Đối với một số trường luôn trong tình trạng ngập sâu cả tháng như Quảng Điền, Phong Điền nên không đủ thời gian dạy bù, các nhà trường sẽ linh động giữa dạy trực tiếp và trực tuyến thường xuyên.
“Hiện tại, địa phương chưa thể áp dụng chế độ nghỉ ngày thứ Bảy cho học sinh và giáo viên. Mặc dù chúng tôi rất mong muốn thực hiện điều này, nhưng do Huế thường xuyên bị ảnh hưởng bởi lũ lụt và thiên tai, việc đảm bảo đủ thời lượng chương trình học tập trở nên khó khăn”, ông Tân bộc bạch.
Ngoài ra, trước tình hình thời tiết phức tạp, Sở này không thể áp dụng chế độ nghỉ hay dạy học đại trà cho tất cả các trường trên địa bàn. Thay vào đó, đơn vị này yêu cầu các đơn vị trường học bám sát dự báo thời tiết để chủ động sắp xếp lịch dạy/nghỉ phù hợp và linh hoạt.
Còn tại Đà Nẵng, có những địa bàn 100% trường bị ngập, điển hình là phường Điện Bàn. Một số vùng ngập sâu, nước rút chậm khiến học sinh phải nghỉ học dài ngày. Cho tới tận 3 tuần sau đợt lũ đầu tiên, học sinh toàn thành phố mới trở lại trường đầy đủ.
Ngành giáo dục tỉnh Gia Lai thiệt hại nặng nề hơn, đặc biệt sau trận lũ lịch sử cuối tháng 11 vừa qua. Nhiều cơ sở giáo dục bị hư hỏng, thiệt hại nặng, có nơi ngập sâu đến 2-3m. Hàng vạn học sinh phải nghỉ học trước những mất mát không thể đong đếm do thiên tai gây ra.
Để ổn định việc dạy và học sau lũ, Sở GD&ĐT tỉnh Gia Lai đề nghị các trường phối hợp địa phương khẩn trương dọn dẹp, vệ sinh trường lớp nhằm đảm bảo an toàn, sạch sẽ, phòng tránh dịch bệnh; chủ động ổn định nền nếp dạy học và triển khai thực hiện kế hoạch giáo dục đã phân công.
Đặc biệt, Sở lưu ý các đơn vị chủ động tổ chức cho học sinh đi học trở lại sau đợt mưa lớn, lũ lụt nhưng phải đảm bảo tuyệt đối an toàn cho cả thầy và trò.
Theo Báo cáo “Việt Nam 2045: Tăng trưởng xanh hơn” của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất trước biến đổi khí hậu. Với trên 3.260km đường bờ biển, các vùng đồng bằng châu thổ đất thấp và khí hậu nhiệt đới, Việt Nam đang phải đối mặt với các rủi ro thiên tai lớn với sự gia tăng của nắng nóng, ngập lụt, bão lũ và mực nước biển dâng cao.
Đó không chỉ là những thách thức về môi trường mà còn đe doạ sinh kế của người dân và nền kinh tế đất nước.
Theo WB, nếu không có hành động thích ứng, thiệt hại kinh tế của Việt Nam có thể lên tới 12,5% GDP và 1,1 triệu người có thể bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo vào năm 2050. Trong đó “vốn con người” - bao gồm học sinh, giáo viên và hạ tầng giáo dục - chịu ảnh hưởng trực tiếp.
WB nhấn mạnh các khuyến nghị đối với Việt Nam như đầu tư vào hạ tầng chống chịu khí hậu, chuyển đổi nông nghiệp thích ứng, phát triển năng lượng tái tạo, xây dựng chính sách bảo hiểm rủi ro thiên tai và tăng cường mạng lưới an sinh cho nhóm dễ tổn thương…
Các khuyến nghị của WB đã đặt ra một câu hỏi cấp thiết: Khi trường học là nơi giáo dục và nuôi dưỡng tương lai, chúng ta có đang đầu tư đủ cho khả năng chống chịu của nó trước thiên tai chưa?
Trong 5 tháng cuối năm 2025, thiên tai trải dài từ miền Bắc tới Nam Trung bộ, từ Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Nội đến Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, Gia Lai, Đắk Lắk, Khánh Hoà, Lâm Đồng… cho thấy thiên tai không còn là chuyện của riêng vùng nào.
Các đô thị lớn của Việt Nam cũng đang ngày càng trở thành “vùng rủi ro” nếu quy hoạch và hạ tầng chưa thích ứng. Mỗi đợt lũ đi qua, cảnh tượng trường học khắp nơi bị ngập lụt chính là minh chứng sống về sự dễ tổn thương của “vốn con người”.
Đây cũng là lời nhắn gửi khẩn thiết cho các nhà hoạch định chính sách rằng: Đầu tư vào trường học thích ứng với thiên tai không chỉ là bảo vệ tài sản mà là bảo vệ tương lai quốc gia.
Trường học luôn là nơi ươm mầm tri thức và hướng đến tương lai. Với tầm nhìn đó, Kiến trúc sư (KTS) Trần Huy Ánh, Ủy viên Thường vụ Hội Kiến trúc sư Hà Nội, nhấn mạnh một nguyên tắc quan trọng: “Trường học phải là nơi an toàn nhất trong vùng rủi ro”.
Trên thực tế, tại nhiều quốc gia, vai trò của trường học còn vượt ra ngoài phạm vi giáo dục, trở thành điểm tựa giúp cộng đồng vượt qua thiên tai và các tình huống khẩn cấp.
KTS Trần Huy Ánh đã đưa ra nhiều ví dụ điển hình về mô hình này trên thế giới. Trong đó, tại Philippines, từ thập niên 60-70, các trường học đã được thiết kế như nơi tránh trú cho cộng đồng mỗi khi có thiên tai xảy ra.
Tại Đài Loan (Trung Quốc), trường học cũng là một trong những điểm tránh trú cộng đồng trước động đất, cháy rừng hay bão.
Tại Cộng hoà Uganda, nơi khô hạn ở châu Phi, trường học được khoan nhiều giếng nước để học sinh đến học có thể mang nước về cho cha mẹ.
Tại Việt Nam, thách thức nằm ở chỗ hạ tầng giáo dục chưa thực sự gắn với quy hoạch ứng phó thiên tai, đôi khi không đảm bảo sự an toàn tối thiểu, đặc biệt tại đô thị.
“Hiếm có trường học nào ở Hà Nội không cho ô tô vào sân trường. Trong khi đây là nguyên tắc để đảm bảo an toàn cho học sinh. Các trường trong trung tâm thiếu sân chơi cho các em, bị bê tông hóa, mất đi sự linh hoạt cần có”, ông Trần Huy Ánh nhận định.
Ông Ánh cũng dẫn chứng Trường THCS Ngô Sĩ Liên - nơi ông từng tham gia thiết kế vào thập niên 90 - công trình này vốn dĩ được thiết kế với hành lang rộng, lan can cao và toàn bộ tầng 1 để trống, vừa làm sân chơi vừa tránh ngập.
Tuy nhiên, khi sử dụng một thời gian, áp lực về việc gia tăng không gian phòng học, phòng chức năng đã thay đổi kiến trúc ban đầu của trường. Các phòng ở tầng 1 dần xây kín, thu hẹp diện tích sân chơi.
KTS Ánh nhận định rằng, biến đổi khí hậu là một mối đe dọa nhưng đồng thời cũng là cơ hội để tái thiết tư duy quy hoạch. Thay vì giữ tâm lý “chạy lũ”, chúng ta cần chủ động chuyển sang “sống cùng lũ” bằng cách tích hợp phòng tránh thiên tai ngay từ khâu thiết kế hạ tầng trường học.
Ông nhấn mạnh, điều này có thể áp dụng ngay tại các đô thị lớn như Hà Nội, nơi kiến trúc trường học để trống tầng 1 cần được khôi phục lại. Mặc dù thiết kế này có thể làm tăng chi phí xây dựng ban đầu, nhưng nó mang lại giá trị lâu dài, đặc biệt trong việc thích ứng với ngập lụt và mưa bão.
KTS Ánh gọi triết lý này là “kiến trúc vì con người”. Ông khẳng định, một ngôi trường có thể vừa là lớp học, vừa là trung tâm tránh trú, nơi tích trữ lương thực, cung cấp nước sạch, thậm chí là nơi tổ chức sinh hoạt cộng đồng trong khủng hoảng.
Vị chuyên gia cũng nhấn mạnh cần đề cao “trí khôn bản địa” khi xây dựng trường học tại các địa phương. Đó chính là sự hiểu biết của người dân địa phương qua hàng trăm năm sống cùng thiên nhiên tại mỗi vùng đất.
Đây sẽ là kinh nghiệm quý báu mà các nhà quy hoạch nên tham khảo, lắng nghe để xây dựng trường học, từ việc chọn vị trí, chọn hướng cổng, hướng mái ngói, máng nước…
Trường học nên được xây dựng tại những khu đất người dân đã từng tránh trú qua nhiều mùa bão, bởi họ là những người hiểu rõ đâu là nơi chịu nước và đâu là nơi dễ sạt lở nhất.
Cùng quan điểm này, PGS.KTS Nguyễn Việt Huy, giảng viên Trường Đại học Xây dựng Hà Nội, khẳng định, việc chọn địa điểm xây dựng trường học vô cùng quan trọng, đặc biệt ở các tỉnh miền núi - nơi có nguy cơ ngập lụt cao.
“Địa điểm bền vững là tiêu chí đầu tiên trong các tiêu chí về kiến trúc xanh và về xây dựng bền vững. Mà muốn có địa điểm bền vững, chúng ta cần tận dụng kinh nghiệm thực tế của người dân bản địa”, PGS Nguyễn Việt Huy nói.
Theo ông Huy, việc xây dựng trường học chống lũ là bất khả thi, nhưng hoàn toàn khả thi nếu xây dựng trường học thích ứng với lũ bằng các chuỗi giải pháp khoa học.
Trong đó, địa điểm xây dựng là yếu tố tiên quyết, tiếp đó là bố trí không gian thuận theo điều kiện tự nhiên - từ tôn trọng dòng chảy, hướng nắng, hướng gió… Đồng thời, trường học cần tận dụng vật liệu xây dựng có khả năng chống chọi với thiên tai mà người dân bản địa vẫn sử dụng qua nhiều đời.
Cuối cùng là một không gian kiến trúc nhân văn, phù hợp với văn hoá, nếp sống, thói quen sinh hoạt của học sinh địa phương. Học sinh chỉ có thể cảm nhận sự an toàn khi cảm nhận được sự thân thuộc tại ngôi trường của các em.
Với trải nghiệm nhiều năm triển khai dự án Nhà chống lũ tại các tỉnh miền Trung, KTS Đinh Bá Vinh cho rằng không thể có một bộ tiêu chuẩn chung về xây dựng trường học thích ứng thiên tai cho cả nước.
Thay vào đó, mỗi địa phương cần nhận diện rủi ro của riêng họ, liệu lũ có lặp lại hay không, mức độ tới đâu để thiết kế hạ tầng - trong đó có trường học - cho phù hợp. Đặc biệt, mỗi nơi sẽ cần phương án riêng thay vì “đồng phục giải pháp”.
Theo KTS Đinh Bá Vinh, những trường học bị ngập lụt trong đợt thiên tai kéo dài vừa qua thuộc hai nhóm với đặc điểm và nhu cầu thích ứng rất khác biệt.
Nhóm thứ nhất nằm trên những địa bàn đã quen với bão lũ, nơi nhà trường có những kỹ năng phòng chống, xử lý tốt, điển hình là các tỉnh miền Trung. Nhiều trường học ở Quảng Bình, Quảng Trị, Huế… còn được JICA tài trợ để xây dựng theo hướng thích ứng với thiên tai đi kèm các chương trình giáo dục về kỹ năng ứng phó khi bão lũ xảy ra.
Những công trình này không chỉ bảo vệ tài sản mà còn bảo toàn sự học, giúp thầy trò trở lại lớp sớm nhất sau lũ.
Cũng tại các tỉnh thành này, việc “chạy lũ” đã trở thành phản xạ. Khi có cảnh báo, thầy cô chủ động chuyển trang thiết bị dạy và học lên tầng cao. Do đó, thứ thầy cô sợ nhất không còn là nước, mà là bùn. Dọn bùn là công việc vô cùng cực nhọc, vất vả sau lũ.
Nhóm trường còn lại ở các địa phương “bỗng dưng có lũ”, chưa từng nằm trong bản đồ rủi ro, nên cả chính quyền, nhà trường lẫn người dân đều chưa kịp thích ứng.
Nhiều trường hợp trường học được xây ở vị trí thấp. Khi lũ đến nhanh hơn dự báo, họ không kịp di dời thiết bị, tài sản, bàn ghế sách vở lên tầng 2 và thiệt hại là điều khó tránh.
Do đó, theo ông Vinh, việc xây dựng trường học thích ứng với thiên tai cần tính toán trên cơ sở thực tế của địa phương cũng như đảm bảo tính khả thi về mặt kinh phí đầu tư. Không nhất thiết ngôi trường nào cũng phải là điểm tránh trú thiên tai mà chỉ lựa chọn một vài điểm nhất định trên một địa bàn rộng.
Ông Vinh cũng nêu yếu tố then chốt của mọi kế hoạch ứng phó thiên tai là cảnh báo sớm và cảnh báo đúng cường độ.
“Nếu dự báo chính xác, trường có thể chuẩn bị vài giờ trước lũ, thiệt hại sẽ giảm đi rất nhiều”, vị kiến trúc sư khẳng định.
Từ khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới đến các sáng kiến “kiến trúc vì con người” của các chuyên gia, một thông điệp rõ ràng đang hiện ra: trường học thích ứng với thiên tai là cần thiết và khả thi.
Mỗi ngôi trường được thiết kế hợp lý, vừa là lớp học, vừa là nơi tránh trú an toàn, sẽ giúp thầy và trò trở lại lớp sớm nhất sau thiên tai. Khi trường học biết cách “sống cùng lũ”, cuộc sống học sinh và cộng đồng sẽ nhanh chóng trở lại bình thường, và nền giáo dục sẽ tiếp tục nuôi dưỡng những con người biết thích nghi, chủ động trước những biến đổi của thiên nhiên.
Đầu tư vào trường học chống chịu thiên tai không chỉ là bảo vệ tài sản hay hạ tầng, mà là bảo vệ vốn con người, bảo vệ tương lai quốc gia. Đây là lúc các nhà hoạch định chính sách và cộng đồng cùng hành động, để mỗi lớp học thực sự trở thành nơi an toàn nhất giữa thiên tai, và để mỗi mùa bão không còn là mùa sợ hãi cho học trò.
Kỳ 1: Hiệu trưởng bật khóc giữa sân trường mênh mông nước, đau đáu nhìn sự học trôi sông
Kỳ 2: Lũ "lấy mất" trường, thầy cô đi xin từng cuốn vở, gieo mùa chữ mới
Nguồn: https://dantri.com.vn/giao-duc/da-den-luc-can-mot-chien-luoc-dau-tu-truong-hoc-thich-ung-thien-tai-20251129183633837.htm






Bình luận (0)