Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Khoa học, công nghệ – động lực then chốt thúc đẩy chuyển đổi xanh trong chăn nuôi

Phát triển khoa học, công nghệ gắn với chuyển đổi xanh và phát triển bền vững đang trở thành vấn đề mang tính toàn cầu, nhất là trong bối cảnh thế giới đối mặt với những thách thức lớn về biến đổi khí hậu, suy giảm tài nguyên thiên nhiên và ô nhiễm môi trường.

Bộ Khoa học và Công nghệBộ Khoa học và Công nghệ10/12/2025

Để giải quyết những vấn đề này, khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong quá trình chuyển đổi mô hình phát triển sang nền kinh tế xanh, phát thải thấp, sử dụng hiệu quả tài nguyên.

Đối với Việt Nam, ngành chăn nuôi nói riêng và nông nghiệp nói chung vừa là trụ cột bảo đảm an ninh lương thực, vừa là lĩnh vực chịu tác động trực tiếp của biến đổi khí hậu, đồng thời cũng là nguồn phát thải cần được kiểm soát và tái cấu trúc theo hướng xanh, bền vững hơn.

Trong nhiều năm qua, khoa học và công nghệ trong chăn nuôi đã trở thành nền tảng và động lực then chốt cho sự phát triển của ngành. Hoạt động nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật đã góp phần quan trọng cải thiện cơ cấu giống, nâng cao năng suất vật nuôi, phát triển công nghệ cao, công nghệ số trong chăn nuôi, từng bước hoàn thiện hệ thống chăn nuôi bền vững.

Vai trò này càng trở nên cấp thiết trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu các mô hình, công nghệ, quy trình mới và chuyển giao rộng rãi vào sản xuất, chế biến nông sản theo hướng kinh tế tuần hoàn. Việc triển khai các quy trình hiện đại, khép kín, tận dụng tối đa phụ phẩm, giảm thiểu sử dụng tài nguyên thiên nhiên và lượng chất thải ra môi trường không chỉ nâng giá trị sản phẩm mà còn bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững ngành chăn nuôi.

Thực tiễn cho thấy, khoa học và công nghệ đã thúc đẩy quá trình chuyển dịch chăn nuôi từ quy mô nhỏ lẻ sang chăn nuôi công nghiệp, từng bước chuyển từ “lượng” sang “chất”. Các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới được áp dụng đồng bộ từ thức ăn, con giống, quy trình nuôi dưỡng đến xử lý môi trường, tạo nền tảng cho công nghiệp hóa nền chăn nuôi theo hướng xanh, an toàn, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và quốc tế.

Khoa học, công nghệ – động lực then chốt thúc đẩy chuyển đổi xanh trong chăn nuôi- Ảnh 1.

Những năm gần đây, ngành chăn nuôi Việt Nam đã và đang cơ cấu lại theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững, thúc đẩy mạnh mẽ chăn nuôi hữu cơ, chăn nuôi tuần hoàn, chăn nuôi xanh. 

Nhiều mô hình tận dụng phụ phẩm nông nghiệp như thân cây ngô, rơm rạ, đậu lạc để sản xuất thức ăn chăn nuôi; xử lý chất thải làm khí sinh học, nuôi trùn quế, sản xuất phân vi sinh, phân bón hữu cơ; áp dụng công nghệ vi sinh, đệm lót sinh học, kỹ thuật xử lý chất thải đã được triển khai. 

Những cách làm này vừa giảm tác động đến môi trường, vừa gia tăng giá trị chuỗi sản xuất. Chăn nuôi gia súc, gia cầm theo chuỗi giá trị, áp dụng chặt chẽ các yêu cầu về an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh và truy xuất nguồn gốc ngày càng được chú trọng. Nhiều doanh nghiệp lớn đã xây dựng liên kết chuỗi, làm chủ công nghệ, đẩy mạnh chuyển đổi số và xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi.

Chất lượng giống vật nuôi được cải thiện rõ rệt; các giống năng suất cao trên thế giới được tiếp nhận và ứng dụng nhanh. 

Các kỹ thuật tiên tiến như thụ tinh nhân tạo, tinh phân ly giới tính, cấy truyền phôi ở bò, lợn, gia cầm đạt tỷ lệ ngày càng cao. Nhiều trang trại đã chủ động xử lý chất thải tại nguồn, sử dụng chế phẩm hữu cơ để xử lý rơm rạ, chất thải chăn nuôi thành phân hữu cơ, góp phần xây dựng nền nông nghiệp xanh, giảm phát thải khí nhà kính, hạn chế tác động xấu đến môi trường xung quanh.

Một số quy trình công nghệ chế biến phụ phẩm nông – công nghiệp, xử lý nước thải chăn nuôi, sản xuất phân hữu cơ vi sinh đã bước đầu được áp dụng trong các trang trại, nông hộ, gắn với định hướng kinh tế tuần hoàn và kinh tế xanh.

Tuy vậy, phát triển chăn nuôi theo hướng bền vững mới đạt được những kết quả ban đầu, còn nhiều vấn đề đặt ra cần tập trung khắc phục. 

Quy mô sản xuất vẫn chủ yếu là nông hộ nhỏ lẻ, thiếu liên kết, tạo rào cản cho việc ứng dụng khoa học công nghệ, tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, gắn sản xuất với chế biến và thương mại nông sản. 

Hệ thống cơ chế, chính sách hỗ trợ chăn nuôi hữu cơ, chăn nuôi tuần hoàn, chăn nuôi xanh còn thiếu đồng bộ, thủ tục xây dựng dự án, tiếp cận cơ chế hỗ trợ vẫn phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro, khiến doanh nghiệp và nông dân khó mạnh dạn đầu tư.

Việt Nam hiện có nguồn phụ phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và chất thải chăn nuôi rất lớn, đây là nguồn “tài nguyên thứ cấp” quan trọng phục vụ phát triển kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp. Tuy nhiên, tỷ lệ thu gom và tái sử dụng còn hạn chế, cơ chế, chính sách để khai thác hiệu quả nguồn phế phụ phẩm này chưa thực sự phát huy tác dụng. 

Bên cạnh đó, chế tài xử lý các vi phạm về sử dụng thuốc thú y, hóa chất, kháng sinh trong chăn nuôi – thủy sản, các hành vi gây ô nhiễm môi trường, gian lận an toàn thực phẩm, trộn lẫn sản phẩm hữu cơ, xanh, chất lượng cao với sản phẩm thông thường chưa đủ mạnh, làm giảm niềm tin của thị trường và gây khó khăn cho việc xây dựng thương hiệu chăn nuôi xanh.

Khoa học, công nghệ – động lực then chốt thúc đẩy chuyển đổi xanh trong chăn nuôi- Ảnh 2.

Ở góc độ phát triển và chuyển giao công nghệ thân thiện môi trường, vai trò của các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp ngày càng thể hiện rõ nhưng vẫn còn nhiều khoảng trống. 

Tại các cơ sở nghiên cứu, hoạt động khoa học đã gắn với thực tiễn hơn, song công tác quản lý, thống kê thương mại hóa công nghệ còn hạn chế; có trường hợp tác giả tự chuyển giao kết quả nghiên cứu mà không có cơ chế giám sát, quản lý phù hợp. Nhiều sáng chế, quy trình công nghệ mới dừng lại ở mức nghiên cứu, chưa hoàn thiện để có thể ứng dụng rộng rãi, đòi hỏi thêm thời gian và nguồn lực đầu tư.

Từ phía nhà khoa học, nhu cầu và khả năng liên kết với doanh nghiệp chưa cao do thiếu cơ chế, động lực và điều kiện phối hợp. Một số sản phẩm khoa học công nghệ còn ít, chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu thương mại hóa; năng lực trang thiết bị nghiên cứu còn hạn chế; thời gian nghiên cứu dài trong khi doanh nghiệp cần giải pháp nhanh, phù hợp với nhu cầu thị trường.

Từ phía doanh nghiệp, phần lớn có quy mô nhỏ, quy trình sản xuất đơn giản, nguồn lực tài chính hạn chế, nên ít có điều kiện đầu tư cho nghiên cứu, đổi mới công nghệ, thẩm định và định giá công nghệ. Vấn đề bảo mật kinh doanh cũng khiến nhiều doanh nghiệp còn e ngại khi hợp tác với viện, trường.

Quyền sở hữu trí tuệ là một trong những yếu tố quan trọng bảo đảm thương mại hóa công nghệ thành công. Tuy nhiên, nhận thức và thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ còn hạn chế, số lượng đơn đăng ký sáng chế công nghệ còn ít, tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ vẫn diễn biến phức tạp. Một bộ phận kết quả nghiên cứu có tiềm năng ứng dụng nhưng chưa đáp ứng yêu cầu thương mại, nhà khoa học chưa chủ động, tích cực trong việc đưa sản phẩm ra thị trường, trong khi doanh nghiệp còn thiếu năng lực và sự sẵn sàng đổi mới công nghệ.

Trong bối cảnh đó, vai trò kiến tạo của Nhà nước trong việc thúc đẩy phát triển thị trường khoa học – công nghệ trở nên đặc biệt quan trọng. Cần tiếp tục rà soát, tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế, cơ chế, chính sách để thị trường khoa học – công nghệ phát triển đồng bộ, hiệu quả, hiện đại và hội nhập; khuyến khích hình thành và phát triển các tổ chức trung gian như đơn vị thẩm định, định giá, tư vấn chuyển giao công nghệ; kết nối thị trường khoa học – công nghệ với thị trường hàng hóa, dịch vụ, lao động và tài chính. 

Việc xây dựng và triển khai thí điểm các chính sách tạo động lực thương mại hóa, sớm đưa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ hình thành từ ngân sách nhà nước, từ hợp tác công – tư cũng như nghiên cứu của khu vực tư nhân vào sản xuất kinh doanh là yêu cầu cấp thiết.

Để thúc đẩy chăn nuôi xanh, một số định hướng giải pháp cần được triển khai đồng bộ. 

Trước hết, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển chăn nuôi xanh, tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu tư xã hội vào nông nghiệp xanh, trong đó có chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào chăn nuôi, phát triển kinh tế trang trại, kinh tế hộ, cơ giới hóa và ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số trong sản xuất và quản lý. Cùng với đó, tổ chức lại sản xuất theo hướng hợp tác, liên kết chặt chẽ trong chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ giữa nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp giữ vai trò nòng cốt.

Song song, cần đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học, công nghệ trong toàn bộ chuỗi chăn nuôi, coi đây là khâu then chốt để tạo đột phá trong cơ cấu lại ngành. 

Việc xây dựng các chính sách khuyến khích chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, hỗ trợ doanh nghiệp chăn nuôi công nghệ cao, phát triển trung tâm khoa học – công nghệ phục vụ vùng chăn nuôi trọng điểm, tăng cường đặt hàng nhiệm vụ khoa học gắn với yêu cầu thực tiễn là rất cần thiết. 

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, từ đào tạo nông dân trở thành “nông dân chuyên nghiệp” đến xây dựng đội ngũ cán bộ kỹ thuật chăn nuôi, quản lý chuỗi giá trị là yếu tố quyết định năng lực tổ chức sản xuất chăn nuôi xanh.

Phải coi trọng phát triển thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế đối với sản phẩm chăn nuôi xanh. Việc tăng cường năng lực nghiên cứu, dự báo thị trường, xúc tiến thương mại, xây dựng hình ảnh sản phẩm xanh, chất lượng cao, bảo đảm an toàn thực phẩm, gắn với thương hiệu và chỉ dẫn địa lý sẽ tạo lợi thế cạnh tranh cho chăn nuôi Việt Nam. Tranh thủ hiệu quả sự hỗ trợ, kinh nghiệm từ các quốc gia, tổ chức quốc tế, gắn phát triển chăn nuôi xanh với quá trình hội nhập sâu rộng, là hướng đi phù hợp với xu thế.

Có thể khẳng định, đột phá trong phát triển khoa học và công nghệ là yếu tố quyết định trong việc thúc đẩy chuyển đổi xanh và phát triển bền vững ngành chăn nuôi. Để đạt mục tiêu đó, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ, doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học và người nông dân trong việc xây dựng và thực thi chính sách, đầu tư cho nghiên cứu – phát triển, thương mại hóa công nghệ xanh. 

Cùng với đổi mới thể chế và hoàn thiện thị trường khoa học – công nghệ, việc nâng cao nhận thức cộng đồng, thay đổi tư duy và hành động của mỗi tổ chức, cá nhân về sản xuất và tiêu dùng xanh sẽ tạo nền tảng xã hội vững chắc cho quá trình chuyển đổi xanh trong chăn nuôi và nông nghiệp, góp phần thiết thực vào mục tiêu phát triển bền vững của đất nước.

Trung tâm Truyền thông KH&CN

Nguồn: https://mst.gov.vn/khoa-hoc-cong-nghe-dong-luc-then-chot-thuc-day-chuyen-doi-xanh-trong-chan-nuoi-197251210182101698.htm


Bình luận (0)

Hãy bình luận để chia sẻ cảm nhận của bạn nhé!

Cùng chuyên mục

Điểm vui chơi Noel gây sốt giới trẻ TPHCM với cây thông 7m
Có gì tại con hẻm nhỏ 100 m ‘gây sốt’ dịp giáng sinh
Choáng ngợp siêu đám cưới tổ chức 7 ngày đêm tại Phú Quốc
Diễu hành cổ phục: Bách hoa hỷ sự

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

Đồn Đèn – 'ban công trời' mới của Thái Nguyên hút giới trẻ săn mây

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm