Bài viết “Bố trí hậu phương: phương châm, tổ chức vận chuyển ở hỏa tuyến và tại trận địa” trong cuốn “Công tác hậu cần chiến dịch Điện Biên Phủ” do Tổng cục Hậu cần xuất bản năm 1979 miêu tả: “Để chuẩn bị cho đợt 2, bộ đội ta tiếp tục xây dựng trận địa, đào một hệ thống giao thông hào vòng quanh khu trung tâm Mường Thanh. Ngoài hệ thống giao thông hào chằng chịt, ngày càng tiến sát trung tâm chỉ huy của địch, nhằm hỗ trợ tối ưu nhất cho các chiến sĩ trên mặt trận tiến công, quân ta cũng xây dựng sơ đồ bố trí hậu phương phù hợp.
Các chiến sĩ quân y của ta luôn luôn bám sát trận địa, cứu chữa kịp thời những trường hợp bị thương
Căn cứ vào yêu cầu tác chiến, điều kiện địa hình và đường sá, các cơ sở kho tàng của tuyến hậu cần hỏa tuyến bố trí dọc theo hai ven đường vận chuyển từ cây số 52 tới cây số 62. Chỉ huy sở của hậu cần hỏa tuyển đặt tại cây số 61, còn chỉ huy sở của Tổng cục tiền phương, ở sát Bộ chỉ huy chiến dịch ở Mường Phăng.
Từ khu vực hậu cần hỏa tuyến tới hậu phương các đại đoàn có 3 đường vận chuyển chính: Đường Khâu Hu, Bản Tấu sang phía tây cho đại đoàn 308; Dọc theo đường 43 vào Na Lợi cho đại đoàn 312; Theo đường kéo pháo vào phía đông cho đại đoàn 316.
Giao thông hào của ta cắt đôi sân bay Mường Thanh, tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến sĩ xung kích tiêu diệt địch
Để hậu cần đại đoàn có thể bố trí sát trận địa và đi sát các đơn vị dưới nhiều hơn, Tổng cục đề ra nguyên tắc: “Kéo dài tuyến Tồng cục, rút ngắn tuyến đại đoàn” để hướng vào hỏa tuyến, đi sát đơn vị.
Trong đợt đầu, cán bộ hậu cần các đơn vị chưa thấy rõ tính chất công tác hậu cần trong một trận công kiên trận địa, chưa có đầy đủ nhận thức về chỉ huy hậu cần, đồng thời do tư tưởng sợ khi pháo sợ địch đánh thọc ra các cơ sở hậu cần, nên bố trí hậu phương ở trong rừng núi xa trận địa. Trong đợt 1, khu vực hậu phương của đại đoàn thường cách các trung đoàn trên 10 cây số. Trung đoàn cách đại đội có trường hợp tới 7-8 cây số”.
Nhandan.vn