Đưa Nghị quyết lan tỏa
Nghị quyết Đại hội XV của Đảng bộ tỉnh nêu rõ, Quảng Ninh xác định lấy phát triển con người, bảo đảm và cải thiện dân sinh làm mục đích là quan điểm, định hướng phát triển của giai đoạn này. Cụ thể hoá mục tiêu, quan điểm, định hướng phát triển, việc kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế nhanh, bền vững với phát triển văn hóa, con người, xây dựng nền văn hóa giàu bản sắc Quảng Ninh; giữa đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa gắn với nâng cao hiệu quả kinh tế đô thị, xây dựng NTM, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách giàu nghèo và chênh lệch vùng miền, bảo đảm an sinh xã hội, tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng sống mọi mặt của nhân dân là một trong 5 nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ. Trên cơ sở đó, một trong 15 đề án, chương trình trọng điểm Quảng Ninh đặt ra tại Nghị quyết Đại hội XV của Đảng bộ tỉnh là Đề án phát triển bền vững kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm vững chắc quốc phòng - an ninh vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030.
NQ 06 là nghị quyết đầu tiên của BCH Đảng bộ tỉnh khóa XV. Nghị quyết đặt trọng tâm và hướng đến vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo. Qua đó tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán trong chỉ đạo thực hiện các chính sách dân tộc và đầu tư phát triển đối với vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo của tỉnh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị. NQ 06 được triển khai đồng bộ với thực hiện các nghị quyết của Quốc hội, các quyết định của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt các chương trình MTQG giai đoạn 2021-2025. Nghị quyết được ban hành trong thời điểm tỉnh đạt nhiều mục tiêu, chỉ tiêu đến năm 2025 của các chương trình MTQG từ đầu giai đoạn 2021-2025, đã đặt ra các mục tiêu, chỉ tiêu cao hơn so với mặt bằng chung của cả nước, thể hiện cách làm chủ động, sáng tạo, đột phá, phù hợp với yêu cầu, tình hình thực tiễn của tỉnh.
Thực hiện NQ 06 đồng bộ với tổ chức thực hiện các chương trình MTQG giai đoạn 2021-2025, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, Ủy ban MTTQ tỉnh và cả hệ thống chính trị đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể hóa, đảm bảo sáng tạo, đột phá, đổi mới, trên cơ sở phù hợp với điều kiện thực tế tại tỉnh, bám sát quy định của trung ương.
Để Nghị quyết lan tỏa, công tác phổ biến, quán triệt được đặt lên là nhiệm vụ hàng đầu. Ngay sau khi Nghị quyết được ban hành, ngày 20/7/2021 BTV Tỉnh ủy tổ chức hội nghị trực tiếp quán triệt tới đội ngũ cán bộ chủ chốt của tỉnh và chỉ đạo phổ biến đến chi bộ. Ban Tuyên giáo (nay là Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy), Ủy ban MTTQ tỉnh, Trung tâm Truyền thông tỉnh (nay là Báo và Phát thanh, Truyền hình tỉnh), các cơ quan báo chí cùng hệ thống thông tin cơ sở của các địa phương đã tích cực tuyên truyền, phổ biến Nghị quyết đến CBCCVC, NLĐ, nhân dân bằng nhiều hình thức, phù hợp, thiết thực. Đồng thời xây dựng cuốn cẩm nang tích hợp có hệ thống các văn bản chỉ đạo thực hiện Nghị quyết; tổ chức tập huấn, quán triệt đến đội ngũ cán bộ cấp huyện, xã, thôn, trực tiếp tham mưu thực hiện tại cơ sở. Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cơ quan, đơn vị, địa phương nghiêm túc tổ chức học tập, quán triệt, tuyên truyền các nội dung của Nghị quyết thông qua tổ chức hội nghị, cuộc họp thường kỳ, họp chuyên môn, sinh hoạt chi bộ, tổ dân, khu phố, thôn, bản, nhất là ở vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo trong tỉnh.
Tỉnh ủy đã ban hành 7 nghị quyết, 1 chương trình, 1 kế hoạch và nhiều kết luận để lãnh đạo, chỉ đạo, đề ra mục tiêu, giao chỉ tiêu thực hiện đến năm 2025. Đồng thời tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, các đơn vị xây dựng đề án, kế hoạch để tổ chức thực hiện nhằm đạt mục tiêu đề ra; tổ chức giám sát người đứng đầu cấp ủy các địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện; chỉ đạo kiểm đếm tiến độ thực hiện theo từng tháng, quý, năm. Trên cơ sở đề xuất của UBND tỉnh, HĐND tỉnh đã ban hành 55 nghị quyết về mục tiêu, nhiệm vụ, cơ chế cùng nhiều chính sách vượt trội đảm bảo bố trí nguồn lực làm cơ sở thực hiện, như: Nghị quyết số 115/NQ-HĐND ngày 9/7/2022 về thông qua Đề án thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM tỉnh đến năm 2025; Nghị quyết số 16/2021/NQ-HĐND về phê duyệt Chương trình tổng thể phát triển bền vững kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm vững chắc quốc phòng - an ninh ở các xã, thôn, bản vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo tỉnh giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030…
Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh (nay là Đảng ủy UBND tỉnh) chỉ đạo UBND tỉnh xây dựng, ban hành Chương trình hành động số 4594/CTr-UBND (ngày 19/7/2021) về triển khai thực hiện NQ 06 với 21 nhóm mục tiêu, chỉ tiêu, 73 nhiệm vụ cụ thể; 15 đề án, 106 kế hoạch, 43 quyết định; cùng nhiều văn bản chỉ đạo có liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ thực hiện NQ 06.
Đặc biệt, tỉnh tập trung chỉ đạo thực hiện cơ chế huy động nguồn lực theo hướng đổi mới, linh hoạt, sáng tạo trong điều hành ngân sách, từ chỗ ngân sách quản lý tập trung ở cấp tỉnh, đã phân cấp giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các địa phương; giảm dần đầu tư từ ngân sách, huy động tốt các nguồn lực đầu tư toàn xã hội.
Trong 5 năm (2021-2025) tỉnh đã huy động trên 120.000 tỷ đồng thực hiện NQ 06, các chương trình MTQG. Điểm nổi bật của tỉnh là NSNN đầu tư trực tiếp và vốn ngân sách nhà nước lồng ghép chỉ chiếm khoảng 16%, vốn huy động xã hội hóa chiếm đến 84% (chủ yếu vốn tín dụng, chiếm 82,5%). Như vậy từ một đồng NSNN đầu tư, tỉnh huy động được trên 5 đồng ngoài ngân sách để đầu tư, góp phần nâng cao chất lượng đời sống nhân dân vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo theo tinh thần NQ 06.
Đời sống nhân dân không ngừng nâng cao
Triển khai NQ 06, tỉnh luôn nhất quán với quan điểm phát triển sản xuất là một trong những giải pháp then chốt để giúp cho người dân, nhất là người dân khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, có việc làm ổn định, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống. Để loại bỏ tư tưởng trông chờ, khơi dậy ý chí vươn lên, thôi thúc khát vọng làm giàu của người dân, tỉnh đã huy động mọi nguồn lực hỗ trợ, đồng hành, "trao cần câu" cho người dân.
Bên cạnh cơ chế chính sách của trung ương, Quảng Ninh đã ban hành nhiều chính sách đặc thù phù hợp với thực tiễn. Trên cơ sở đó, tỉnh chủ động thực hiện mở rộng phạm vi địa bàn, đối tượng và bố trí vốn ngân sách để thực hiện chính sách vùng DTTS và miền núi. Đồng thời đa dạng hóa nguồn lực để thực hiện tín dụng chính sách xã hội, lồng ghép với các chương trình MTQG, dự án trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương từng giai đoạn.
Nhờ đó nguồn vốn tín dụng chính sách được triển khai rộng khắp đến các thôn, bản vùng sâu, vùng xa, vùng DTTS với trên 35.700 lượt người dân được vay vốn. Trong đó mỗi người dân được hỗ trợ cho vay tối đa 100 triệu đồng, phù hợp với khả năng tổ chức SXKD, lãi suất cho vay thấp, thời gian vay dài tới 10 năm. Nguồn vốn đã thực sự giúp người dân thay đổi nhận thức, tư duy, cách thức làm ăn; giảm sự trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước; từng bước vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất quê hương.
Mô hình nuôi hươu lấy nhung của anh Vi Văn Nghiệp (dân tộc Tày, thôn Đồng Thắng, xã Hoành Mô) không chỉ là điển hình của xã, mà còn lan toả, thu hút nhiều người dân ở nhiều địa phương đến tham quan, học tập. Năm 2023 từ vốn vay từ các chương trình tín dụng chính sách, anh Nghiệp đã tiên phong đầu tư mô hình nuôi hươu. Từ 16 con hươu được mua từ Hương Sơn, Hà Tĩnh về nuôi, đến nay đàn hươu của gia đình anh phát triển gấp đôi; 1 con hươu nuôi lấy nhung thu được từ 8-12 triệu đồng; hươu cái bán được 12-15 triệu đồng/con để làm giống. Ước tính mô hình cho nguồn thu từ 200-300 triệu đồng/năm.
Anh Nghiệp chia sẻ: Gia đình tôi có 3ha trồng rừng. Giống như nhiều người dân DTTS khác, nhiều năm qua, cuộc sống của gia đình chỉ trông chờ vào mấy hecta rừng, nên còn nhiều khó khăn. Tình cờ tôi biết mô hình nuôi hươu lấy nhung từ một người bạn. Nhận thấy con hươu dễ chăm sóc, sức đề kháng cao, phù hợp với điều kiện khí hậu tại địa phương, với quyết tâm nâng cao đời sống của gia đình, tôi đã quyết định thực hiện mô hình. Thông qua tổ chức chính trị - xã hội của xã, tôi biết đến nguồn vốn chương trình tín dụng chính sách dành cho vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo theo NQ 06. Tôi được vay 120 triệu đồng, lãi suất thấp, thời gian cho vay dài, thủ tục đơn giản. Nguồn vốn này thực sự có ý nghĩa quan trọng cho đồng bào DTTS phát triển kinh tế.
Anh Dường Phúc Thím (thôn Khe Tiền, xã Hoành Mô) lựa chọn phát triển du lịch gắn với gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc. Bằng nguồn vốn vay tín dụng chính sách, anh đầu tư xây dựng homestay Hương Hồi Quế. Được đưa vào hoạt động từ cuối năm 2024, homestay Hương Hồi Quế mô phỏng theo ngôi nhà trình tường truyền thống của người Dao, tọa lạc tại vị trí đắc địa, lưng tựa vào núi, mặt hướng ra ruộng bậc thang, bao quanh bởi cây xanh mát. Với kiến trúc độc đáo, hài hòa cùng thiên nhiên, đầy đủ tiện nghi, homestay của anh Thím là điểm lưu trú hấp dẫn du khách.
Anh Thím chia sẻ: Du khách đến Bình Liêu bởi yêu nét đẹp văn hóa của đồng bào nơi đây. Vì vậy tôi muốn homestay của mình phải mang dấu ấn, thật sự như ngôi nhà truyền thống ấm cúng của người Dao, tạo không gian cho du khách trải nghiệm văn hóa bản địa. Du khách sẽ được trải nghiệm nhiều hoạt động văn hóa, du lịch đặc sắc như xem trình diễn văn hóa dân tộc, thưởng thức các món ăn truyền thống của người Dao Thanh Phán, trekking xuyên rừng tại Đồng Văn và tham quan cuộc sống của người dân trong thôn… Nguồn vốn tín dụng chính sách không chỉ giúp tôi hiện thực hoá ước mơ làm giàu, mà còn gìn giữ, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Cũng từ nguồn vốn vay theo NQ 06, chị Trần Thị Vân (thôn Pặc Pùng, xã Bình Liêu) trở thành người đi tiên phong đưa giống nho sữa Hàn Quốc về trồng. Ngay sau khi đầu tư mua giống, chị Vân tự dựng nhà màng, lắp giàn, kéo ống tưới… mà không thuê thợ để tiết kiệm chi phí. Dù vậy tổng chi phí vẫn hết 500 triệu đồng. Để có kinh phí đầu tư hạ tầng, chị đã tiếp cận với nguồn vốn tín dụng chính sách theo NQ 06.
Vụ đầu cho sản lượng 500kg, thu về khoảng 100 triệu đồng. Vụ thứ 2 này sản lượng dự kiến tăng gấp 3-4 lần, cho 2 tấn nho, thu hoạch sẽ vượt ngoài mong đợi. Không chỉ bán quả, vườn nho của chị Vân hiện còn là điểm đến hấp dẫn người dân và du khách trong và ngoài tỉnh. Chị Vân chia sẻ: Những ngày đầu khởi nghiệp, nếu không có vốn tín dụng chính sách, gia đình tôi chắc chắn không có được vườn nho ngày hôm nay. Vườn nho không chỉ mang lại nguồn thu từ 300-400 triệu đồng/năm, mà còn giải quyết việc làm cho 5-7 lao động địa phương. Từ hiệu quả của trang trại nho này, gia đình tiếp tục thuê thêm đất để đầu tư 1 vườn mới 5.000m2, đồng thời nghiên cứu mô hình trồng dưa hấu ruột vàng, tận dụng tối đa diện tích đất, nâng cao thu nhập.
Thành quả của ngày hôm nay không chỉ là sự thay đổi tư duy, nâng cao thu nhập và đời sống của nhân dân, mà còn là biến khát vọng làm giàu thành hiện thực nơi vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo. Thành quả đó thêm một lần nữa thể hiện quan điểm nhất quán của tỉnh trong mọi giai đoạn phát triển tất cả vì hạnh phúc nhân dân.
Nguồn: https://baoquangninh.vn/vung-dong-bao-dtts-mien-nui-bien-gioi-hai-dao-tren-da-doi-moi-3372068.html
Bình luận (0)