Từ HTX "bơi giữa dòng chảy số"
Theo khảo sát của Chi cục Phát triển nông thôn và Liên minh HTX Hải Phòng, sau hợp nhất đơn vị hành chính, toàn thành phố hiện có 701 HTX, trong đó 562 HTX nông nghiệp đang hoạt động. Đây là lực lượng quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn, nhưng lại là nhóm gặp khó nhất khi tiếp cận chuyển đổi số.
Nhiều HTX có cơ cấu thành viên chủ yếu là nông dân lớn tuổi, xuất phát điểm thấp về kỹ năng số. Vì vậy, những yêu cầu tưởng như cơ bản của chuyển đổi số như: xây dựng thương hiệu trên môi trường số, bán hàng qua sàn thương mại điện tử, sử dụng chữ ký số, quản trị dữ liệu sản xuất, khách hàng… vẫn là "bài toán khó".
HTX nông nghiệp Đức Chính (xã Gia Phúc) là một trong những đơn vị được đánh giá sản xuất, kinh doanh hiệu quả ở khu vực tây Hải Phòng nhờ lợi thế trồng rau màu đặc thù, hướng đến xuất khẩu. Tuy nhiên, cách điều hành vẫn chủ yếu dựa trên kinh nghiệm tích lũy, chưa có hệ thống quản trị số, chưa ứng dụng công nghệ trong theo dõi quy trình, đơn hàng, truy xuất nguồn gốc.
Sản phẩm mắm tép của Hợp tác xã Kim Thành.
Một số HTX như HTX Kim Thành đã có sản phẩm chế biến như mắm tép có khả năng trở thành sản phẩm đặc sản trên các sàn thương mại điện tử nhưng thiếu nhân lực số, thiếu chiến lược quảng bá bài bản do đó khó chuyển thành giá trị kinh tế tương xứng.
Tại Diễn đàn "Chuyển đổi số trong nông nghiệp: Nắm bắt cơ hội, thích ứng tương lai" mới đây, lãnh đạo Liên minh HTX Việt Nam nhấn mạnh chuyển đổi số là "đòn bẩy tăng trưởng" của HTX nông nghiệp, là con đường ngắn nhất để nâng năng suất, chất lượng, tối ưu chi phí, mở rộng thị trường và tăng tính minh bạch. Tuy nhiên, với nhiều HTX nông nghiệp ở Hải Phòng, con đường này vẫn còn dài.
Ông Đồng Quốc Trà, Phó Chi cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn Hải Phòng, cho rằng định hướng phát triển HTX nông nghiệp của thành phố phải đi theo ba trục chính: Nâng cấp hạ tầng hỗ trợ: từ thủy lợi, kho bãi, máy móc, đến hệ thống kết nối dữ liệu, tạo nền tảng để áp dụng nông nghiệp số. Đẩy mạnh số hóa trong nông nghiệp: xây dựng mã số vùng trồng, ứng dụng công nghệ trong quản lý sản xuất, theo dõi quy trình, truy xuất nguồn gốc. Chuyển từ tư duy "sản xuất nông nghiệp" sang "kinh tế nông nghiệp": HTX phải coi dữ liệu, thương hiệu, chuỗi giá trị là tài sản, chứ không chỉ dừng ở bán sản phẩm thô.
Ông Nguyễn Minh Hoàng, Phó Chủ tịch Liên minh HTX Hải Phòng, nhấn mạnh: Muốn HTX thực sự bước vào quỹ đạo chuyển đổi số, cần sớm xây dựng bản đồ số nông nghiệp nông thôn, cơ sở dữ liệu đồng bộ về vùng nguyên liệu, tổ chức sản xuất, sản phẩm chủ lực. Đồng thời, quản lý mã số vùng nguyên liệu, truy xuất nguồn gốc, tăng cường quảng bá, xúc tiến thương mại trực tuyến, đưa sản phẩm nông thôn lên các kênh bán hàng số một cách bài bản.
Thực tế cho thấy, chuyển đổi số không chỉ là trang bị thêm máy tính, điện thoại thông minh, mà là quá trình nâng năng lực số cho HTX và người nông dân, từ quản lý sản xuất, tài chính đến xúc tiến thương mại. Nếu không giải quyết được nút thắt về con người và tư duy quản trị, hạ tầng công nghệ dù tốt đến đâu cũng khó phát huy tác dụng.
Đến chủ động "bắt sóng" công nghệ
Các doanh nghiệp đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số trong hoạt động lưu chuyển hàng hóa tại khu vực cảng Lạch Huyện.
Nhiều doanh nghiệp Hải Phòng đang chủ động coi chuyển đổi số là chiến lược sống còn trong hoạt động kinh doanh. Công ty CP Chế biến thủy sản xuất khẩu Hạ Long (phường Ngô Quyền), doanh nghiệp chuyên sản xuất, chế biến thủy sản đông lạnh đã tận dụng tốt cơ hội từ hội nhập và các hiệp định thương mại tự do. Trong định hướng phát triển, lãnh đạo doanh nghiệp xác định tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ hiện đại vào chế biến, bảo quản, đồng thời tăng cường giao dịch trực tuyến với đối tác trong và ngoài nước. Công nghệ, theo đó, không chỉ là công cụ hỗ trợ sản xuất mà còn là "ngôn ngữ" để doanh nghiệp nâng tầm uy tín, thương hiệu.
Công ty TNHH Autel Robotics Việt Nam tại khu đô thị, công nghiệp và dịch vụ VSIP chuyên sản xuất máy bay không người lái và thiết bị liên quan, do đó ứng dụng công nghệ số vào từng khâu từ thiết kế, sản xuất đến kiểm tra, vận hành là điều bắt buộc.
Trong lĩnh vực logistics và dịch vụ cảng biển, chuyển đổi số cũng diễn ra mạnh mẽ. Đến nay, 100% cảng đã đầu tư hệ thống quản lý hiện đại, trong đó hơn 40% cảng ứng dụng các nền tảng cảng biển số. Việc tự động hóa khâu quản lý bến bãi, lưu container, điều độ tàu thuyền giúp rút ngắn thời gian giải phóng hàng, giảm chi phí cho doanh nghiệp.
Ông Trần Tiến Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Logistics Hải Phòng, khẳng định các doanh nghiệp hội viên đều chủ động đầu tư công nghệ mới. Tuy vậy, ông cũng lưu ý việc chuẩn hóa, thống nhất phương thức quản lý, chia sẻ dữ liệu giữa các cảng, đặc biệt là cụm cảng nước sâu Lạch Huyện, là điều kiện quan trọng để tối ưu hiệu quả, tránh "mạnh ai nấy làm".
Ở tầm rộng hơn, Hải Phòng hiện có hơn 1.100 doanh nghiệp công nghệ số, gần 9.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng nền tảng số. Tất cả doanh nghiệp đã triển khai hợp đồng điện tử, thủ tục đăng ký doanh nghiệp trực tuyến mức độ 4, cho thấy môi trường kinh doanh đang dịch chuyển mạnh sang không gian số.
Ông Phạm Hồng Quất, Cục trưởng Cục Khởi nghiệp và Doanh nghiệp công nghệ (Bộ KH&CN), đánh giá Hải Phòng là "điểm sáng của vùng đồng bằng Bắc bộ" về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo. Các sàn giao dịch công nghệ, trung tâm khởi nghiệp sáng tạo tại đây đã kết nối với nhiều đối tác quốc tế, không chỉ ở khía cạnh thương mại mà còn ở lĩnh vực ươm tạo, đầu tư, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp.
Tuy nhiên, Hải Phòng cũng còn một số khó khăn thách thức. Số doanh nghiệp có trung tâm R&D vẫn ít, hoạt động ĐMST chưa được "cài" vào vận hành thường xuyên; Liên kết viện - trường - doanh nghiệp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ chưa thật chặt chẽ, khiến nhiều kết quả nghiên cứu khó đi vào thực tiễn sản xuất. Ở khu vực HTX và nông thôn, khoảng cách số với khối doanh nghiệp, đô thị vẫn còn lớn: thiếu nhân lực trẻ am hiểu công nghệ, thiếu người "dẫn đường số" tại từng HTX.
Tiến sĩ Bùi Thanh Tùng, Chủ tịch Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật thành phố, cho rằng cùng với nỗ lực từ phía doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước cũng cần đổi mới tư duy trong xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ KHCN và ĐMST, cần tập trung vào các gói hỗ trợ thiết thực, gắn nghiên cứu với nhu cầu thực của doanh nghiệp, ưu tiên các mô hình có khả năng nhân rộng.
Nguồn: https://mst.gov.vn/doanh-nghiep-hop-tac-xa-hai-phong-tren-hanh-trinh-so-hoa-197251129110655726.htm






Bình luận (0)